Đánh giá kết quả nuôi tôm nặm lợ năm 2022 ở Nghệ An

Chủ nhật - 29/01/2023 21:33 0
Năm 2022 đã qua đi với những thử thách không hề nhỏ đối với ngành nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm mặn. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ kịp thời từ Trung ương đến địa phương, sự chỉ đạo tận tâm của các cấp lãnh đạo và sự chủ động, sáng tạo của các cá nhân/tổ chức trong ngành, nuôi tôm mặn năm 2022 đã đạt được những kết quả tích cực.
Năm 2022, ngành thủy sản đã đạt được những kết quả đáng mừng trong sản xuất tôm. Diện tích nuôi tôm đạt 2.310 ha, tăng 107,24% so với năm 2021 và vượt mức tiêu chuẩn đến năm 2025 của Chương trình phát triển thủy sản 105%. Sản lượng thu hoạch tôm cũng tăng lên 9.181 tấn, đạt 108,00% so với cùng kỳ năm 2021. Tuy nhiên, sản lượng này chỉ đạt được 73,44% so với mục tiêu đến năm 2025 của kế hoạch hành động ngành tôm và Chương trình phát triển thủy sản.
Sản xuất và ương dưỡng tôm giống cũng đạt được kết quả tích cực khi đạt 2.600 triệu con, tăng 105,82% so với năm 2021. Tuy nhiên, con số này chỉ đạt được 74,28% so với mục tiêu đến năm 2025 của kế hoạch hành động ngành tôm và Chương trình phát triển thủy sản. Trong đó, tôm Sú đạt 200 triệu con, tăng 82,99% so với năm 2021, trong khi tôm Thẻ chân trắng đạt 2.400 triệu con, tăng 108,30% so với năm 2021.
Giá trị sản xuất tôm cũng đạt được kết quả tích cực khi đạt 1.000 tỷ đồng so với giá so sánh năm 2010, tăng 1085% so với năm 2021. Nếu tính theo giá hiện hành, giá trị sản xuất đạt 1.650 tỷ đồng, tăng 138% so với năm 2021. Tất cả những thành tích này đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của ngành thủy sản nói chung và sản xuất tôm nói riêng.



Đầu năm nay, đã có sự phối hợp giữa UBND các địa phương để thực hiện tốt công tác thủy lợi, cải tạo ao đầm, nạo vét kênh mương và vệ sinh môi trường vùng nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật. Đồng thời, đã bố trí cán bộ để bám sát địa bàn, tuyên truyền và hướng dẫn người dân nghiêm túc chấp hành nuôi trồng thủy sản theo đúng quy định, cũng như đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ mới.
Trong năm 2022, các địa phương đã tập trung vào việc hướng dẫn và chỉ đạo các cá nhân và tổ chức liên quan thực hiện đăng ký nuôi trồng thủy sản lồng bè, đặc biệt là đối tượng thủy sản nuôi chủ lực. Kết quả là đã tiếp nhận và xử lý thành công 06 bộ hồ sơ đăng ký đối tượng thủy sản nuôi chủ lực, đạt được 100% số hồ sơ đăng ký. Tổng số lượng Giấy xác nhận cấp cho các cơ sở nuôi từ năm 2019 đến nay đã đạt 354 giấy xác nhận trên tổng số 1.208 cơ sở nuôi, tức là đạt tỉ lệ 29,03% (trong đó, 1.650 cơ sở đạt tỉ lệ 21,45%).
Chi cục Thủy sản đã tiến hành 10 đợt lấy mẫu quan trắc môi trường tại 9 vùng nuôi tôm để kiểm tra chỉ tiêu chất lượng nước và mầm bệnh. Kết quả cho thấy có 08 mẫu chỉ tiêu độ mặn thấp hơn so với quy định, tuy nhiên, 02 mẫu bị nhiễm mầm bệnh đốm trắng. Trong khi đó, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã thực hiện tốt việc giám sát dịch bệnh chủ động, bị động tại các cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm và vùng nuôi tôm thương phẩm. Kết quả lấy mẫu tôm giống và tôm thương phẩm cho thấy không phát hiện bệnh Đốm trắng (WSD) và Hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).
Các đơn vị trong ngành thủy sản đang triển khai quyết liệt công tác kiểm tra và thanh tra điều kiện và chất lượng của thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường, cũng như giống thủy sản. Việc kiểm tra và thanh tra nhằm nâng cao ý thức tuân thủ các quy định của nhà nước và đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Ngoài ra, công tác kiểm tra và thanh tra còn tham mưu cho Lãnh đạo các cấp để chấn chỉnh và nâng cao công tác quản lý nhà nước.
Đối với công tác kiểm tra và thanh tra thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản, đã thực hiện 02 cuộc kiểm tra và thanh tra trên 26 cơ sở, gồm 04 tổ chức và 22 cá nhân. Các lĩnh vực kiểm tra và thanh tra chủ yếu là việc tuân thủ các quy định trong hoạt động mua bán và sử dụng thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Kết quả cho thấy tất cả 26 cơ sở, cá nhân đều đã chấp hành quy định.
Đối với công tác kiểm tra và thanh tra giống thủy sản, đã tiến hành 04 đợt kiểm tra chất lượng giống trong sản xuất và ương dưỡng với 07 cơ sở sản xuất, ương dưỡng trên địa bàn tỉnh. Đối tượng kiểm tra là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Qua kết quả kiểm tra chất lượng cá giống và tôm giống của các cơ sở được kiểm tra đều đáp ứng tiêu chuẩn cơ sở công bố áp dụng và các quy định của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Ngoài ra, đã triển khai kiểm tra duy trì điều kiện của 15 cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm giống và tất cả 15 cơ sở này đều đáp ứng được các quy định của nhà nước. Cuối cùng, đã thực hiện 01 cuộc thanh tra theo kế hoạch trên 01 tổ chức (Công ty TNHH Hải Tuấn) về việc tuân thủ các quy định trong hoạt động sản xuất, ương dưỡng và chất lượng giống.


Các đơn vị trong ngành thực phẩm đang chú trọng đến công tác kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Để đảm bảo điều này, Chi cục Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản Nghệ An đã triển khai việc lấy mẫu theo đúng quy định và thường xuyên gửi thông báo kết quả cho các địa phương và người nuôi. Ví dụ, trong năm 2022, họ đã lấy 49 mẫu tôm nuôi thương phẩm tại các vùng nuôi trọng điểm và kiểm tra dư lượng của nhiều loại chất độc hại. Kết quả phân tích cho thấy tất cả các mẫu đều đạt yêu cầu và không có dư lượng hóa chất vượt mức giới hạn cũng như không có dư lượng kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản. Các địa phương cũng đã thực hiện quản lý và ký cam kết cho cơ sở sản xuất thực phẩm theo các quy định tại Thông tư số 17/2018/TT-BNNPTNT và Quyết định số 11/2021/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nghệ An. Ngoài ra, các đơn vị cũng triển khai cấp giấy chứng nhận ATTP 01/04 cho các cơ sở thuộc diện cấp giấy chứng nhận ATTP theo các quy định tại Thông tư số 38/2018/TT-BNNPTNT và 32/2022/TT-BNNPTNT.
Trong năm vừa qua, Chi cục Thủy sản đã chủ động triển khai Nghị quyết số 18/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh và hỗ trợ chính sách xây dựng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng sử dụng công nghệ mới. Tổng cộng đã có 08 mô hình được lựa chọn, hướng dẫn và hỗ trợ, và mức hỗ trợ tối đa là 230 triệu đồng/mô hình. Trong số đó, mô hình áp dụng Quy trình nuôi siêu thâm canh 02 giai đoạn ít thay nước theo công nghệ Trúc Anh đã được áp dụng thành công, mang lại hiệu quả đáng kể như: dễ kiểm soát môi trường nuôi, giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và giảm chi phí sản xuất.
Ngoài ra, Chương trình nông thôn mới cũng đã xây dựng hai mô hình cụ thể trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng sử dụng công nghệ tuần hoàn khép kín (RAS) và tái sử dụng nước kết hợp với hệ thống biogas để xử lý chất thải. Cả hai mô hình đều đạt được kết quả tốt.
Tuy số lượng mô hình chính sách hỗ trợ hàng năm của nhà nước có hạn, nhưng nhờ hiệu quả đáng kể mà các mô hình nuôi tôm sử dụng các công nghệ mới đã được phát triển và nhân rộng thành công trong những năm qua.
Trong ngành nuôi trồng thủy sản, công tác tuyên truyền đã được đặc biệt chú trọng và phát triển với nhiều hình thức và nội dung phong phú. Việc này giúp người dân có được nhận thức rõ hơn và nâng cao kỹ năng trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước cũng như tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất giống và nuôi trồng thủy sản. Điều này được thể hiện qua việc các đơn vị trong ngành đã tổ chức thành công nhiều hoạt động tuyên truyền, bao gồm tập huấn, hội thảo, phát hành tập san, chương trình truyền hình và các cuộc hội thảo phối hợp với các tổ chức liên quan.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền còn giúp nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp hành các quy định nhà nước và quản lý chất lượng sản phẩm thủy sản để đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng. Các hoạt động này đã cho thấy hiệu quả qua việc không phát hiện bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào vi phạm quy định nhà nước trong năm qua. Từ đó, công tác tuyên truyền và phối hợp trong ngành nuôi trồng thủy sản đang có sự phát triển tích cực và đáp ứng tốt yêu cầu của ngành cũng như đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đánh giá kết quả sản xuất thủy sản có hai phần chính: sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản và nuôi tôm thương phẩm. Trong phần sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, lĩnh vực sản xuất giống đã có những tiến bộ vượt bậc, từ quy trình sản xuất cho đến chất lượng và số lượng sản phẩm được kiểm soát chặt chẽ. Tôm bố mẹ và tôm giống trước khi xuất bán đều được kiểm tra chất lượng, kiểm dịch theo quy định. Cơ sở hạ tầng sản xuất, ương dưỡng giống tôm ngày càng được nâng cấp và mở rộng công suất, tổng công suất thiết kế năm 2022 đạt 4.000 triệu con/năm. Đối với sản xuất, ương dưỡng tôm Thẻ chân trắng, số lượng sản phẩm đạt 2.400 triệu con, tăng 108,30% so với năm 2021. Số lượng chủ lực vẫn là Công ty TNHH Việt Úc Nghệ An và Công ty TNHH Hải Tuấn, còn các cơ sở nhỏ lẻ đưa giống về ương dưỡng. Trong khi đó, số lượng sản phẩm tôm Sú giống thấp hơn so với năm 2021 do khó khăn trong việc tiêu thụ, chỉ đạt 200 triệu con, bằng 82,99% so với năm trước.
Phần nuôi tôm thương phẩm ngày càng được đầu tư theo hướng thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất. Công tác ứng dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng công nghệ cao vào nuôi trồng, ngày càng quan tâm và đạt được những kết quả tốt. Diện tích nuôi đạt 2.310 ha, tăng 107,24% so với năm 2021, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm Thẻ chân trắng. Nguồn giống chủ yếu đến từ Công ty TNHH Việt Úc, chiếm khoảng 45%, tiếp đến là Công ty TNHH Hải Tuấn, Công ty TNHH Thông Thuận, Công ty CP chăn nuôi CP Việt Nam và Công ty TNHH đầu tư thủy sản Nam Miền Trung. Các quy trình, công nghệ trong nuôi tôm ngày càng được quan tâm và phát triển, ứng dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến và công nghệ cao.
Xuất khẩu thủy sản của tỉnh Nghệ An trong năm 2022 có những biến động so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 97 triệu USD, tăng 18,6% so với năm 2021, trong đó tôm chiếm tỷ lệ lớn nhất với hơn 50% giá trị xuất khẩu. Trong thời gian đầu năm, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, xuất khẩu thủy sản của tỉnh Nghệ An gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sau khi tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, việc xuất khẩu đã phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ trong quý II và quý III. Các thị trường chính của thủy sản Nghệ An bao gồm các nước trong khu vực châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Ngoài ra, thủy sản Nghệ An còn được xuất khẩu sang các thị trường châu Âu và Mỹ. Chất lượng thủy sản Chất lượng thủy sản Nghệ An đáp ứng được các yêu cầu của các thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thủy sản đã áp dụng nghiêm các quy trình kiểm soát chất lượng từ giai đoạn sản xuất, chế biến cho đến đóng gói và vận chuyển.
Ngoài ra, hệ thống kiểm tra, giám sát chất lượng thủy sản của tỉnh Nghệ An cũng được xây dựng và triển khai một cách nghiêm ngặt. Các cơ sở sản xuất, chế biến thủy sản phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng để được cấp giấy chứng nhận xuất khẩu. Trong năm 2022, tình hình bệnh trên tôm nuôi đã tăng đáng kể so với cùng kỳ năm trước, với diện tích bị ảnh hưởng lên đến 116,83 ha, gấp 4,9 lần so với năm 2021. Trong số đó, bệnh đốm trắng chiếm 63,98 ha, bệnh hoại tử gan tụy cấp tính chiếm 45,03 ha và tôm chết không rõ nguyên nhân chiếm 7,82 ha. Số lượng phường/xã có tôm bị bệnh cũng tăng từ 7 phường/xã vào năm 2021 lên đến 12 phường/xã vào năm 2022, và số ao nuôi bị ảnh hưởng cũng tăng từ 71 ao lên đến 347 ao trong năm 2022.
Các loại bệnh trên tôm nuôi thường xuất hiện nhiều vào các tháng trong năm như tháng 4, 5, 7, 8 và tháng 10, và đã gây ra tình trạng tôm chết hoặc chậm lớn không đồng đều. Mặc dù đã có cơ sở nuôi khai báo diện tích bị ảnh hưởng, nhưng vẫn còn nhiều diện tích nuôi tôm bị bệnh mà người nuôi không khai báo với chính quyền địa phương và cơ quan thú y, tự tiến hành xử lý.
Điều đáng chú ý là tôm bị bệnh chủ yếu xuất hiện trong giai đoạn từ 15-50 ngày thả giống, với một số trường hợp tôm bị bệnh ngay khi mới thả vào bể ương gièo chỉ sau 3 ngày. Ngoài ra, năm nay còn xuất hiện biểu hiện của bệnh vi bào tử trùng (EHP) trong nhiều ao nuôi tôm, dẫn đến tôm chậm lớn, kích cỡ không đồng đều và chết rải rác trong quá trình nuôi.
Tổng kết lại, sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, nuôi tôm thương phẩm và xuất khẩu thủy sản của tỉnh Nghệ An đang phát triển tốt với những kết quả đáng mừng. Đây là kết quả của sự đầu tư nghiêm túc và sự quan tâm của các doanh nghiệp, cơ quan chức năng cũng như sự hỗ trợ của chính quyền địa phương.
Hồng Trung
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Nguồn: Sưu tầm

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập1950
  • Hôm nay129,507
  • Tháng hiện tại888,209
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây