BẢN BIÊN TẬP
Người biên tập:
Tên bài: Đặc điểm sinh học, sinh thái và giá trị dược liệu của lan Thạch hộc tía
Nội dung:
- Đặc điểm sinh học, sinh thái
Cây có hệ rễ khí sinh, có một lớp hút ẩm dày bao quanh gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không khí nên rễ ánh lên màu xanh bạc. Vì vậy rễ hút được nước mưa chảy dọc trên vỏ cây gỗ hay nước lơ lửng trong không khí, hơi sương và hơi nước, giúp cây hút dinh dưỡng và chất khoáng, mặt khác giúp cây bám chặt vào giá thể, không bị gió cuốn. Một số loài có thân lá kém phát triển thậm chí tiêu giảm hoàn toàn, có hệ rễ chứa diệp lục tố giúp cây hấp thụ ánh sáng cần thiết cho sự ra hoa và quang hợp (Nguyễn Công Nghiệp, 2004). Rễ của lan Dendrobium không chịu được lạnh, nếu bị lạnh trong thời gian dài, rễ cây sẽ bị mục nát và cây bị chết (Dương Công Kiên, 2006).
Rễ lan Dendrobium cũng giống như rễ lan Vũ nữ, Cattleya thuộc loại rễ bán gió. Nhóm này thường có rễ nhỏ nhưng rất nhiều rễ, chủ yếu bám vào giá thể, vào thân cây để hút dưỡng chất dính vào giá thể như nước, cho nên khi trồng vào chậu, phải để giá thể nhiều hơn, gần như toàn bộ rễ đều bám vào giá thể, vào thành chậu, chỉ có một số ít rễ chìa ra ngoài. Đối với lan rễ bán gió phải trồng với giá thể nhỏ hơn và nhiều hơn, để bộ rễ bám dày đặc hút nhiều dưỡng chất v.v...
Giá thể của lan Dendrobium có cấu tạo tương tự như các loài thuộc giống Cattleya, nghĩa là chậu phải thật thông thoáng và không úng nước. Tuy nhiên do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả hành có thân, các loài thuộc giống Dendrobium có thể dùng giá thể hơi ẩm hơn Cattleya chút ít nhưng không được làm thối căn hành. Vì thế một số loài lan Dendrobiumcó thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa hay cả quả dừa, dùng như một cái chậu chứa sẵn giá thể. Cũng có thể trồng lan Dendrobium với căn hành cách đáy chậu khoảng (3cm), rồi rải thật thoáng xung quanh căn hành một số rễ lục bình giặt sạch. Với cách trồng này thì kích thước chậu và cây phải thật tương xứng.Tuy nhiên giá thể than và gạch vẫn tỏ ra hiệu quả nhất (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Dendrobium thuộc nhóm đa thân (còn gọi là nhóm hợp trục) có hệ thống nhánh nằm ngang bò dài trên giá thể hoặc nằm sâu trong đất gọi là thân rễ. Một số Dendrobium lá chỉ có ở các mầm non, là loài chống tàn chúng vàng úa và rụng vào mùa thu, thân phì to giống như củ không có lá là nơi dự trữ năng lượng (Trần Văn Bảo, 1999) [8].
Giả hành là những đoạn phình to, bên trong có các mô mềm chứa dịch nhầy làm giảm sự mất nước và dự trữ chất dinh dưỡng để nuôi cây trong điều kiện khô hạn khi cây sống bám trên cao. Ngoài ra, giả hành còn chứa diệp lục tố nên có thể quang hợp được (Nguyễn Công Nghiệp, 2004). Hình dạng và kích thước của giả hành rất đa dạng: hình cầu, thuôn dài hay hình trụ xếp chồng lên nhau tạo thành thân giả có lá mọc xen kẽ (Dương Công Kiên, 2006). Một số loài ở xứ lạnh chỉ có nhiệmvụ dự trữ chất dinh dưỡng nên giả hành không có màu xanh nhưng phía trên có mang lá (Dương Công Kiên, 2006).
Các lá mọc xen kẽ nhau và ôm lấy thân giả do lá có tận cùng bằng một cuốn hay thuôn dài xuống thành bẹ ôm thân, hình dạng và cấu trúc lá rất đa dạng (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Lá có hình kim, trụ có rãnh hay phiến mỏng. Dạng lá mềm mại mọng nước nạc, dai, có màu xanh bóng, đậm hay nhạt tuỳ thuộc vào vị trí sống của cây. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo gân vòng cung như cái quạt hay chỉ gấp lại theo gân giữa như hình chữ V. Những lá sát dưới gốc đôi khi giảm đi chỉ còn những bẹ không phát triển hay giảm hẳn thành vảy (Dương Công Kiên, 2006).
Các loài thuộc giống Dendrobium vùng nhiệt đới nói riêng và họ Orchidaceae nói chung đôi khi trút lá vào mùa khô hạn. Sau đó, cây ra hoa hay sống ẩn để khi gặp mưa thì cho chồi mới (Trần Văn Bảo, 1999).
Dendrobium thuộc nhóm phụ ra hoa ở nách lá. Chồi hoa mọc từ các mắt ngủ giữa các đọt lá trên thân gần ngọn và cả trên ngọn cây. Sự biểu hiện trước khi ra hoa khác biệt như có nhiều loài rụng hết lá trước khi ra hoa. Thời gian ra hoa đầu mùa mưa hay đầu tết. Giống Dendrobium khi đủ dinh dưỡng thì cho hoa thành chùm, phát hoa dài và thời gian ra hoa trung bình 1- 2 tháng (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Họ Orchidaceae đều có quả thuộc quả nang, khi hạt chín, các nang bung ra chỉ còn dính lại với nhau ở đỉnh và gốc. Ở một số loài, khi chín quả không nứt ra nên hạt chỉ ra khỏi quả khi quả bị mục nát (Dương Công Kiên, 2006).
Những hạt giống không chứa các chất dinh dưỡng do gió gieo vãi, để được nẩy mầm cần có nấm cộng sinh hỗ trợ các chất cần thiết, đặc biệt ở đầu các giai đoạn phát triển (Trần Văn Huân và cs, 2004) [9].
2. Giá trị dược liệu của lan Thạch hộc tía
Thạch hộc làm thuốc có nhiều hoạt chất có hoạt tính sinh học quý. Thạch hộc tía giàu polysacarit thạch hộc, alkaloit thạch hộc, các acid amine và nhiều chất khoáng kali, canxi, magie, mangan, đồng, titan và nhiều nguyên tố vi lượng, trong đó polysacarit thạch hộc tới 22%, hàm lượng các acid amine như glutamic, asparagic, glucin chiếm tới 35% tổng lượng acid amine. Ngoài ra, thạch hộc tía còn có những hợp chất đặc thù như phenanthryn, bibenzyl , keton, ester và các chất nhầy, hợp chất amidon. Trong thân thạch hộc tía có hàm lượng alkaloit sinh học chiếm tới 0,3%, trong đó những chất amine đã được giám định cấu trúc gồm dendrobine, dendramine, nobilonine, dendrin, 6-hydroxy-dendroxine, shiunin, shihunidine và muối amoniac N-methyl-dendrobium, 8-epidendrobine, các chất này có vị hơi đắng. Thân thạch hộc tía có dầu bay hơi, trong đó có chất manool của hợp chất ditecpen chiếm hơn 50%.
Trong cây thạch hộc tía có nhiều hợp chất có giá trị dược lý. Sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại, trong cây thạch hộc tía đã phân lập được 72 hợp chất đơn thể, trong đó đã giám định được 63 hợp chất và phát hiện thêm 18 hợp chất mới gồm các loại: Hợp chất loại Bibenzil và các dẫn xuất gồm 27 loại; hợp chất Phenol có 12 loại; hợp chất Lignanoid có 4 loại; hợp chất lacton có 2 loại; hợp chất dihydroflavon có 2 loại; các hợp chất khác có 16 loại và 18 hợp chất mới.
Giám định hoạt tính kháng oxy hóa và kháng u bướu, đã phát hiện phần lớn các hợp chất loại bibenzil đều có hoạt tính kháng oxy hóa, có 2 loại hợp chất Bibenzil có hoạt tính kháng u bướu.
Công dụng dược lý của Thạch hộc tía chủ yếu là: Tăng cường công năng miễn dịch: Với hàm lượng polysaccarit phong phú có công năng tăng cường miễn dịch. Nghiên cứu về dược lý hiện đại cho biết, thạch hộc tía có thể nâng cao năng lực ứng thích, có tác dụng tốt về chống mệt mỏi và chống chịu ngạt oxy.
- Kháng phong thấp: Vào tuổi trung niên sức khỏe bắt đầu suy giảm, công năng xương cốt thoái hóa, thạch hộc tía có khả năng tư dưỡng âm dịch, bôi trơn các khớp, giúp cho gân cốt khỏe, khớp nối thanh thoát, có hiệu quả tăng cường kháng phong thấp.
- Giảm đường huyết, mỡ máu: Thạch hộc tía dưỡng âm thanh nhiệt, thuận táo, là thảo dược chuyên dụng để điều trị bệnh tiểu đường. Kết quả nghiên cứu lâm sàng cho biết thạch hộc tía không những có hoạt tính tăng cường Insulin, đồng thời có khả năng giảm đường huyết giúp cho máu hoạt động bình thường, xúc tiến tuần hoàn, giãn huyết quản, giảm cholesterol và triglyceride.
- Kháng u bướu: Thạch hộc tía có khả năng tiêu diệt một số tế bào ác tính của ung thư phổi, ung thư buồng trứng, bệnh máu trắng với hoạt tính kháng ung thư tương đối mạnh. Trong lâm sàng sử dụng thạch hộc tía làm thuốc điều trị bổ sung các bệnh ung thư ác tính, cải thiện tính trạng của người bệnh, giảm nhẹ tác dụng phụ của các liệu pháp xạ trị, hóa trị, tăng sức miễn dịch, nâng cao chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ.
- Kháng suy não: Thạch hộc tía là thần dược có tác dụng trẻ hóa cơ thể. Trong thạch hộc tía có nhiều nguyên tố vi lượng quý có tác dụng chống lão hóa tốt hơn nhiều so với các loại thuốc khác./.
NHUẬN BÚT
Tác giả: Xuân Minh
Tiêu đề: Đặc điểm sinh học, sinh thái và giá trị dược liệu của lan Thạch hộc tía
Ngày xuất bản: ngày 27 tháng 04 năm 2022
Nội dung:
- Đặc điểm sinh học, sinh thái
Cây có hệ rễ khí sinh, có một lớp hút ẩm dày bao quanh gồm những lớp tế bào chết chứa đầy không khí nên rễ ánh lên màu xanh bạc. Vì vậy rễ hút được nước mưa chảy dọc trên vỏ cây gỗ hay nước lơ lửng trong không khí, hơi sương và hơi nước, giúp cây hút dinh dưỡng và chất khoáng, mặt khác giúp cây bám chặt vào giá thể, không bị gió cuốn. Một số loài có thân lá kém phát triển thậm chí tiêu giảm hoàn toàn, có hệ rễ chứa diệp lục tố giúp cây hấp thụ ánh sáng cần thiết cho sự ra hoa và quang hợp (Nguyễn Công Nghiệp, 2004). Rễ của lan Dendrobium không chịu được lạnh, nếu bị lạnh trong thời gian dài, rễ cây sẽ bị mục nát và cây bị chết (Dương Công Kiên, 2006).
Rễ lan Dendrobium cũng giống như rễ lan Vũ nữ, Cattleya thuộc loại rễ bán gió. Nhóm này thường có rễ nhỏ nhưng rất nhiều rễ, chủ yếu bám vào giá thể, vào thân cây để hút dưỡng chất dính vào giá thể như nước, cho nên khi trồng vào chậu, phải để giá thể nhiều hơn, gần như toàn bộ rễ đều bám vào giá thể, vào thành chậu, chỉ có một số ít rễ chìa ra ngoài. Đối với lan rễ bán gió phải trồng với giá thể nhỏ hơn và nhiều hơn, để bộ rễ bám dày đặc hút nhiều dưỡng chất v.v...
Giá thể của lan Dendrobium có cấu tạo tương tự như các loài thuộc giống Cattleya, nghĩa là chậu phải thật thông thoáng và không úng nước. Tuy nhiên do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả hành có thân, các loài thuộc giống Dendrobium có thể dùng giá thể hơi ẩm hơn Cattleya chút ít nhưng không được làm thối căn hành. Vì thế một số loài lan Dendrobiumcó thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa hay cả quả dừa, dùng như một cái chậu chứa sẵn giá thể. Cũng có thể trồng lan Dendrobium với căn hành cách đáy chậu khoảng (3cm), rồi rải thật thoáng xung quanh căn hành một số rễ lục bình giặt sạch. Với cách trồng này thì kích thước chậu và cây phải thật tương xứng.Tuy nhiên giá thể than và gạch vẫn tỏ ra hiệu quả nhất (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Dendrobium thuộc nhóm đa thân (còn gọi là nhóm hợp trục) có hệ thống nhánh nằm ngang bò dài trên giá thể hoặc nằm sâu trong đất gọi là thân rễ. Một số Dendrobium lá chỉ có ở các mầm non, là loài chống tàn chúng vàng úa và rụng vào mùa thu, thân phì to giống như củ không có lá là nơi dự trữ năng lượng (Trần Văn Bảo, 1999) [8].
Giả hành là những đoạn phình to, bên trong có các mô mềm chứa dịch nhầy làm giảm sự mất nước và dự trữ chất dinh dưỡng để nuôi cây trong điều kiện khô hạn khi cây sống bám trên cao. Ngoài ra, giả hành còn chứa diệp lục tố nên có thể quang hợp được (Nguyễn Công Nghiệp, 2004). Hình dạng và kích thước của giả hành rất đa dạng: hình cầu, thuôn dài hay hình trụ xếp chồng lên nhau tạo thành thân giả có lá mọc xen kẽ (Dương Công Kiên, 2006). Một số loài ở xứ lạnh chỉ có nhiệmvụ dự trữ chất dinh dưỡng nên giả hành không có màu xanh nhưng phía trên có mang lá (Dương Công Kiên, 2006).
Các lá mọc xen kẽ nhau và ôm lấy thân giả do lá có tận cùng bằng một cuốn hay thuôn dài xuống thành bẹ ôm thân, hình dạng và cấu trúc lá rất đa dạng (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Lá có hình kim, trụ có rãnh hay phiến mỏng. Dạng lá mềm mại mọng nước nạc, dai, có màu xanh bóng, đậm hay nhạt tuỳ thuộc vào vị trí sống của cây. Phiến lá trải rộng hay gấp lại theo gân vòng cung như cái quạt hay chỉ gấp lại theo gân giữa như hình chữ V. Những lá sát dưới gốc đôi khi giảm đi chỉ còn những bẹ không phát triển hay giảm hẳn thành vảy (Dương Công Kiên, 2006).
Các loài thuộc giống Dendrobium vùng nhiệt đới nói riêng và họ Orchidaceae nói chung đôi khi trút lá vào mùa khô hạn. Sau đó, cây ra hoa hay sống ẩn để khi gặp mưa thì cho chồi mới (Trần Văn Bảo, 1999).
Dendrobium thuộc nhóm phụ ra hoa ở nách lá. Chồi hoa mọc từ các mắt ngủ giữa các đọt lá trên thân gần ngọn và cả trên ngọn cây. Sự biểu hiện trước khi ra hoa khác biệt như có nhiều loài rụng hết lá trước khi ra hoa. Thời gian ra hoa đầu mùa mưa hay đầu tết. Giống Dendrobium khi đủ dinh dưỡng thì cho hoa thành chùm, phát hoa dài và thời gian ra hoa trung bình 1- 2 tháng (Nguyễn Công Nghiệp, 2004).
Họ Orchidaceae đều có quả thuộc quả nang, khi hạt chín, các nang bung ra chỉ còn dính lại với nhau ở đỉnh và gốc. Ở một số loài, khi chín quả không nứt ra nên hạt chỉ ra khỏi quả khi quả bị mục nát (Dương Công Kiên, 2006).
Những hạt giống không chứa các chất dinh dưỡng do gió gieo vãi, để được nẩy mầm cần có nấm cộng sinh hỗ trợ các chất cần thiết, đặc biệt ở đầu các giai đoạn phát triển (Trần Văn Huân và cs, 2004) [9].
2. Giá trị dược liệu của lan Thạch hộc tía
Thạch hộc làm thuốc có nhiều hoạt chất có hoạt tính sinh học quý. Thạch hộc tía giàu polysacarit thạch hộc, alkaloit thạch hộc, các acid amine và nhiều chất khoáng kali, canxi, magie, mangan, đồng, titan và nhiều nguyên tố vi lượng, trong đó polysacarit thạch hộc tới 22%, hàm lượng các acid amine như glutamic, asparagic, glucin chiếm tới 35% tổng lượng acid amine. Ngoài ra, thạch hộc tía còn có những hợp chất đặc thù như phenanthryn, bibenzyl , keton, ester và các chất nhầy, hợp chất amidon. Trong thân thạch hộc tía có hàm lượng alkaloit sinh học chiếm tới 0,3%, trong đó những chất amine đã được giám định cấu trúc gồm dendrobine, dendramine, nobilonine, dendrin, 6-hydroxy-dendroxine, shiunin, shihunidine và muối amoniac N-methyl-dendrobium, 8-epidendrobine, các chất này có vị hơi đắng. Thân thạch hộc tía có dầu bay hơi, trong đó có chất manool của hợp chất ditecpen chiếm hơn 50%.
Trong cây thạch hộc tía có nhiều hợp chất có giá trị dược lý. Sử dụng các phương pháp phân tích hiện đại, trong cây thạch hộc tía đã phân lập được 72 hợp chất đơn thể, trong đó đã giám định được 63 hợp chất và phát hiện thêm 18 hợp chất mới gồm các loại: Hợp chất loại Bibenzil và các dẫn xuất gồm 27 loại; hợp chất Phenol có 12 loại; hợp chất Lignanoid có 4 loại; hợp chất lacton có 2 loại; hợp chất dihydroflavon có 2 loại; các hợp chất khác có 16 loại và 18 hợp chất mới.
Giám định hoạt tính kháng oxy hóa và kháng u bướu, đã phát hiện phần lớn các hợp chất loại bibenzil đều có hoạt tính kháng oxy hóa, có 2 loại hợp chất Bibenzil có hoạt tính kháng u bướu.
Công dụng dược lý của Thạch hộc tía chủ yếu là: Tăng cường công năng miễn dịch: Với hàm lượng polysaccarit phong phú có công năng tăng cường miễn dịch. Nghiên cứu về dược lý hiện đại cho biết, thạch hộc tía có thể nâng cao năng lực ứng thích, có tác dụng tốt về chống mệt mỏi và chống chịu ngạt oxy.
- Kháng phong thấp: Vào tuổi trung niên sức khỏe bắt đầu suy giảm, công năng xương cốt thoái hóa, thạch hộc tía có khả năng tư dưỡng âm dịch, bôi trơn các khớp, giúp cho gân cốt khỏe, khớp nối thanh thoát, có hiệu quả tăng cường kháng phong thấp.
- Giảm đường huyết, mỡ máu: Thạch hộc tía dưỡng âm thanh nhiệt, thuận táo, là thảo dược chuyên dụng để điều trị bệnh tiểu đường. Kết quả nghiên cứu lâm sàng cho biết thạch hộc tía không những có hoạt tính tăng cường Insulin, đồng thời có khả năng giảm đường huyết giúp cho máu hoạt động bình thường, xúc tiến tuần hoàn, giãn huyết quản, giảm cholesterol và triglyceride.
- Kháng u bướu: Thạch hộc tía có khả năng tiêu diệt một số tế bào ác tính của ung thư phổi, ung thư buồng trứng, bệnh máu trắng với hoạt tính kháng ung thư tương đối mạnh. Trong lâm sàng sử dụng thạch hộc tía làm thuốc điều trị bổ sung các bệnh ung thư ác tính, cải thiện tính trạng của người bệnh, giảm nhẹ tác dụng phụ của các liệu pháp xạ trị, hóa trị, tăng sức miễn dịch, nâng cao chất lượng cuộc sống, kéo dài tuổi thọ.
- Kháng suy não: Thạch hộc tía là thần dược có tác dụng trẻ hóa cơ thể. Trong thạch hộc tía có nhiều nguyên tố vi lượng quý có tác dụng chống lão hóa tốt hơn nhiều so với các loại thuốc khác./.