HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Cổng Thông tin khoa học công nghệ Nghệ An



BẢN BIÊN TẬP


Người biên tập:
Tên bài: Chuyên san KHXH&NV số 12/2019
Nội dung:

GS. Phong Lê

Người lính trong lịch sử ít có dấu ấn trong văn học. Với văn học cổ điển ta có mấy câu thơ trong bản dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Với văn học dân gian, ta có mấy câu ca dao:

Ngang lưng thì thắt bao vàng

Đầu đội nón dấu vai mang súng dài

Một tay thì cắp hỏa mai

Một tay cắp súng quan sai xuống thuyền

Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Thời hiện đại, những năm tiền cách mạng, ta có bài Ca binh lính trong chùm 30 bài ca Việt Minh của Hồ Chí Minh:

Hai tay cầm khẩu súng dài

Ngắm đi ngắm lại bắn ai thế này?

Bắn vào quân Nhật, quân Tây

Lũ cướp nước, lũ đọa đầy dân ta.

Khỏi phải bình luận nhiều về nội dung xã hội, giá trị hiện thực và chất lượng nghệ thuật của các áng thơ trên. Câu chuyện ta bàn hôm nay có liên quan đến lịch sử thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (với tiền thân là Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Bác Hồ thành lập năm 1941) trong thời đại Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có thời điểm khai sinh là 22 tháng 12 năm 1944. Đó là lực lượng vũ trang rồi sẽ góp phần quyết định làm nên Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc thoát khỏi ách chủ nghĩa thực dân 80 năm và nghìn năm xã hội phong kiến.

Khi trong đời sống có sự xuất hiện người lính thì tất yếu văn học sẽ cùng song hành để ghi lại dấu ấn, hình ảnh và chân dung người lính trên từng bước hành trình của họ, trong vai trò người Vệ quốc quân, Cảm tử quân, anh Bộ đội cụ Hồ, anh Giải phóng quân qua tất cả các giai đoạn lịch sử xuyên suốt thế kỷ XX.

Ở đây, trong bài này, tôi chỉ giới hạn sự theo dõi và ghi nhận chân dung, dáng nét của họ trong chặng đầu của cách mạng sau 1945, với đôi nét đặc thù, qua sáng tạo của một đội ngũ người viết chuyên và không chuyên trong buổi đầu nền văn học mới.

Người lính trong thơ ở chặng đầu này, qua sáng tạo của một đội ngũ viết như Chính Hữu, Quang Dũng, Hoàng Lộc, Hồng Nguyên, Hoàng Trung Thông, Hữu Loan… chắc chắn nhiều thế hệ độc giả đã rất quen thuộc.

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười hướng phất phơ cờ đỏ thắm

Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

(Chính Hữu)

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Quang Dũng)

Rất "khẩu khí", rất "yêng hùng" - đó là âm hưởng chung của Chính Hữu và Quang Dũng. Và một chiều khác - đó là mất mát, hy sinh, với Hoàng Lộc trong Viếng bạn; với sinh hoạt đời thường, và tình quân dân thắm thiết như trong Nhớ của Hồng Nguyên, Bộ đội về làng của Hoàng Trung Thông; và "bi lụy" trong Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Tôi đặt trong ngoặc kép mấy đặc trưng - để ghi dấu nhận thức và phán quyết của một thời.

Trong văn xuôi, cần được nói dài hơn; và với văn xuôi cũng đã diễn ra những kiếm tìm của một đội ngũ tác giả đông hơn, gồm cả chuyên và không chuyên. Xin bắt đầu từ Trần Đăng, theo tôi, có lẽ là cây bút đầu tiên cho ta làm quen với anh bộ đội. Là người thủ đô, Trần Đăng viết về anh bộ đội chưa từng biết thủ đô, hoặc có biết thủ đô, nhưng trở về trong tư thế xa lạ và phủ nhận hết thảy mọi ánh sáng phù hoa của đời sống thành thị. Nét đó có phần còn lẫn lộn ít nhiều tâm trạng chủ quan, hoặc nói theo tác giả, còn mang theo cái "xác chủ quan" (Một lần tới thủ đô; 1946).

Cũng Trần Đăng là người, trong quãng đời văn ngắn ngủi của mình, sớm ghi nhận được những nét dáng khác nhau của anh bộ đội đến từ nhiều nguồn. Sự tìm kiếm một chân dung thực về anh bộ đội ở Trần Đăng có lúc ráo riết như một sự săn đuổi. Đại đội trưởng P.N lăm lăm chuôi kiếm, vẻ mặt nghiêm lạnh, lẳng lặng mà nôn nóng, luôn tay nhìn đồng hồ, trong Trận Phố Ràng (1949) là hình ảnh có "nguyên mẫu" trong cuộc đời. Có thể tìm sự tương ứng của anh bộ đội đó trong truyện và ký của Trần Đăng với đồng đội của họ trong thơ, qua hình ảnh "đoàn quân Tây Tiến", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" của Quang Dũng, hoặc "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", với "giày vạn dặm", "bụi trường chinh" trong Ngày về của Chính Hữu. Thế nhưng bên cạnh đại đội trưởng P.N, những binh nhất binh nhì trước trận đánh diễn ra còn cãi nhau châu chấu - cào cào con nào bằng đầu, con nào nhọn đầu, lại là hình ảnh hồn nhiên của một lớp thanh niên vào cách mạng ở tuổi đời còn non trẻ. Cũng những giờ khắc đó, ở cái bút ký có tên Một cuộc chuẩn bị (1949) khó quên câu chuyện ồn ào giữa đám lính, nơi một trạm nghỉ, vào đêm trước ngày ra trận: "Sàn dưới ồn ào chia nhau mấy tấm gỗ không biết vác ở đâu về, hai người ba tấm, ba người hai tấm, làm cho một anh liên lạc đại đội bộ ở trên, ngày trước làm nghề đóng áo ở Phòng ngứa mồm chõ xuống gọi: - Này! Một người thì phải sáu tấm, bốn dài hai ngắn nhớ, ngủ đi nhớ!".

Câu đùa tếu, và cũng có thể là nghiêm chỉnh của anh lính làm nghề đóng áo (tức đóng quan tài) này, đã vào các trang viết của Trần Đăng một cách hồn nhiên. Một khía sống khách quan của thời chiến, nhà văn tinh ý nhặt được. Cũng có thể là một khía sống được soi qua tâm trạng, khi ở cuối thiên ký sự, nhà văn để một dòng lửng lơ: "Mai, một cuộc đời mới nữa, sống hay chết trong đạn lửa".

Dừng lại ở những năm 1948-1949 của văn học kháng chiến chống Pháp, cùng với ký của Trần Đăng, còn có Voi đi của Siêu Hải, Lưỡi mác xung kích, Thư nhà của Hồ Phương, và những trang ghi chép ngắn của không ít cây bút viết văn bộ đội. Đó là lực lượng viết hình thành cùng với kháng chiến, để bổ sung cho đội ngũ chuyên nghiệp còn khá mỏng, và khá đông trong họ còn đang bâng khuâng trong những bước nhận đường. Đó là những sáng tác ra đời với các dấu ấn mới lạ, được giới chuyên nghiệp chào đón nồng nhiệt.

Sự xuất hiện của lớp người trẻ tuổi này hoàn toàn không ngẫu nhiên. Nó có cơ sở trong sự phát triển của phong trào văn nghệ bộ đội. Ở sự đua nở của báo tay, báo tường, thơ ca báng súng. Ở những trang nhật ký, sổ tay của các cây bút đội viên và cán bộ. Điều đáng kể là những giá trị mới mà nó mang lại. Một hơi văn mạnh. Sự chân thật, khoẻ. Một vẻ đẹp hồn nhiên, lắm lúc tự nhiên. Các chi tiết sống lắm khi chưa kịp gọt giũa... Chính từ trong phong trào bộ đội viết, và viết về bộ đội này mà làm nảy nở những cây bút sau này sẽ là đội quân chủ lực của văn học mới chúng ta, mà số lớn rồi sẽ hội về trụ sở 4 Lý Nam Đế, và làm nên "phố nhà binh" ở trung tâm Hà Nội. Nhưng trước khi nói đến đội ngũ này, không được phép quên những người mang niềm khao khát viết mà chưa một lần xuất hiện. Họ đã ngã xuống quá sớm, khi những ước mơ còn chưa kịp hình thành.

Đây là những trang nhật ký ghi ngày 29-12-1948 của Phan Phú, Chính trị viên đại đội một đơn vị chủ lực, hy sinh trong trận Bản Trại, được lưu lại trong sổ tay của Tô Hoài:

... "Chúng tôi cùng một tiểu đội trở vào bản (làng) đi sục sạo từng nhà một. Mỗi khi bước vào một nhà, lại hơi rợn rợn, không biết địch để lại cái gì trong nhà: một tên bị thương liều lĩnh, một vài quả lựu đạn nổ chậm... Trong mấy gian nhà vắng tanh, đồ đạc của chúng tôi vẫn còn bừa bãi: chăn chiếu, ba lô, quần áo, tỏ ra địch chưa kịp lấy một thứ gì cả đã vội phải rút lui. Ánh sáng vẫn chiếu tưng bừng qua kẽ lá, qua mái nhà. Con gà vừa đẻ xuống vẫn cục tác vang lừng. Tôi không lấy làm ngạc nhiên vì cảnh vật có vẻ thanh bình giữa trận ác liệt đang xẩy ra... Tôi lại quay trở lại chỗ đại đội I vẫn đương đánh nhau với Pháp ở sườn đồi trước mặt.

(...)

Chiều hôm qua rời A.T lúc 5 giờ, đoàn quân lại kéo qua P.R theo bờ sông máng. Hai bên đường, trên những ruộng lúa chín vàng, mấy người thợ gặt gái trai đứng nhìn chúng mình. Chiều đẹp quá, êm ả như bất cứ chiều thu nào khác ở thôn quê. Xa xa, bên kia sông, một cứ điểm của Pháp hiện thành một khối vuông trắng xoá giữa các đỉnh đồi trọc. Người dân, những ruộng lúa vàng, cứ điểm địch, và người vệ quốc quân, những hình ảnh ấy hiện ra cùng một lúc, bao hàm bao ý nghĩa"(1).

Và đây là ghi chép của Lê Nguyên - Đại đội trưởng Đại đội 156, Sư đoàn 308, hy sinh ngày 20-3-1949 - được giữ gìn cẩn thận trong ba lô của Trần Đăng.

"Kinh nghiệm trường đời cho biết rằng không nên giãi bày tâm sự mình lên trang giấy, nhưng từ khi vào bộ đội, mình có những xúc động ghê gớm thầy cần phải ghi lại... Trận B.T. mình dẫn bộ đội đánh thốc ngang vào... Tụi địch không biết gì cả. Đấy là lần đầu mình giữ một vai trò quan trọng trong một trận ác liệt... Đến sát đồn, mình thấy ba thằng lính Đức tóc lật ngược trước gió, đứng trên miệng hầm, bên đống lửa rừng rực, lia súng ra phía suối...".

Một mẩu ghi khác có tên Đôi mắt: "Tiểu đội phó N.Đ. Thản có đôi mắt một mí như Nhật vậy. Trời, sao mình yêu đôi mắt hiền từ và đẹp như thế!

Trận B.T. lúc ấy mình chưa cho lệnh bắn. Hắn sướng quá bắn luôn một tràng thompson, thế là lũ giặc bắn như mưa... Thản bị bắn xuyên óc, chết ngồi dựa lưng vào vách đá. Hôm sau địch chạy hết, mình vào chôn cất cho Thản.

Đã có bao nhiêu đôi mắt như đôi mắt của N.Đ.Thản đã nhắm ở chiến trường mà không người vuốt xuống"(2).

Cả Phan Phú và Lê Nguyên đều hy sinh ở Bản Trại, Lạng Sơn. Cả hai cùng viết về những cảm xúc từ đời lính, về những tình huống căng thẳng, và cả những mất mát, hy sinh trong chiến tranh. Điều đáng nói ở đây là một dạng văn theo khuynh hướng mới, chứ không phải văn chương theo khuôn sáo cũ, thường thấy có ở những người mới học viết. Cái chất văn là kết quả của một năng khiếu quan sát tinh tế, tỉ mỉ, kết hợp với một mạch ngầm cảm xúc chân thành. Và nếu ở Phan Phú là khuynh hướng khai thác những sự trạng trái ngược để nói cái chất đời bình thường trong chiến tranh như một hoàn cảnh không bình thường; thì ở Lê Nguyên là sức hút, sức xoáy của chi tiết khách quan - hoà vào một chủ quan giàu sức cảm nghĩ.

Thực ra nói Phan Phú hoặc Lê Nguyên, chỉ là nói một trong số rất nhiều tên, chưa kịp trở thành bút danh. Các sáng tác trong phong trào bộ đội viết này có lúc đã được tuyển chọn trong một tập văn có tên Vệ quốc quân viết, như một bó hoa tươi. Một tập văn từng gây nhiều hứng thú và xúc động cho bạn đọc, và sớm nhận được sự chào đón nồng nhiệt của Nam Cao: "Những người viết cũng như những nhân vật họ tả đều là những con người hành động. Họ hy sinh và đoàn kết, chiến đấu và kỷ luật. Tâm lý họ không phiền phức, rắc rối. Họ giản dị và thiết thực, không viển vông, vơ vẩn...". Để từ nhận xét đó, Nam Cao đi tới sự khẳng định về bản chất cuộc sống mới: "Người anh hùng đã thành thường thấy trong thời kháng chiến này, chính người bạc nhược mới là người hiếm thấy"(3).

Đó là một tập văn đã được chọn tuyển, được in. Còn vô số trang văn khác, trên khắp các báo tay, báo tường. Đến với các đơn vị bộ đội, chăm chú quan sát, đọc, ghi chép, không ít nhà văn đã phải ngạc nhiên vì cái chất mới của người lính mà nó mang lại, để góp vào việc nhận diện gương mặt mới của dân tộc. Tân Sắc "đọc bích báo Tết bộ đội": "Trong tất cả những bích báo Tết năm ngoái của các đơn vị bộ đội mà tôi được đọc, tịnh không có cái "buồn nhớ nhà" của người lính. Những người Binh Nhì, Binh Bét, Vệ Hiếng, Vệ Còm chúng ta tuy có nhắc tới nhà cửa ở xa, nhưng là nhắc với một giọng vui nghịch ngợm, hay là với một sự so sánh ngộ nghĩnh, so sánh cái Tết "mẹ đĩ" với cái Tết "làng Vệ". Để đi đến một nhận định rõ ràng rằng cái Tết "làng Vệ" bao giờ cũng vui hơn, ý vị hơn cái Tết "mẹ đĩ". Phải chăng người lính của chúng ta một khi quen sống cuộc đời bộ đội rồi, cảm thấy rõ ràng gia đình bộ đội là nguồn an ủi dịu dàng, là sự nâng đỡ lành mạnh, là nơi phát huy những tình thương đằm thắm, chân thật, tình yêu đời, yêu nước, yêu bạn, đẹp đẽ, cao hơn trong gia đình thực của mình nhiều"(4). Ở buổi đầu một nền văn học đang trên những bước dò tìm, sự phát triển của phong trào bộ đội viết, hay nói rộng hơn, của phong trào quần chúng viết để hưởng ứng khẩu hiệu "Kháng chiến hoá văn hoá và Văn hoá hoá kháng chiến", quả có một tác động tích cực rõ rệt. Nó giúp cho sự nhận diện gương mặt con người thời đại, như thu hoạch của Tân Sắc, Nam Cao đã kể trên. Nó còn giúp cho sự xác định "con đường đi" chung của "văn nghệ thời đại", như nhận xét của Nguyễn Đình Thi: "Sức hấp dẫn... đối với tôi thật đặc biệt, tuy đó mới là những lời bập bẹ chưa thành hình... Một nghệ thuật còn ròng ròng sự sống, một nghệ thuật chân đứng vững trên mặt đất tưới đẫm mồ hôi và khét tiếng súng, một cái đẹp khoẻ, không khéo léo phấn son, mà mộc mạc, tươi như vừa mới nẩy lên từ một bàn tay hoá công nào, một nghệ thuật vui sống, vui chiến đấu, vui làm lụng, đó là con đường của văn thơ anh binh nhì đã bước lên. Đó cũng là con đường đi của tất cả văn nghệ thời đại"(5).

*   *  *

Từ đây, qua các mốc lịch sử Điện Biên Phủ - 1954, và Đại thắng Mùa Xuân - 1975, đến thời kỳ Đổi mới - 1986 và hội nhập - 1995, kết thúc thế kỷ XX chuyển sang Thế kỷ mới và Thiên niên kỷ mới, đội ngũ nhà văn mặc áo lính không lúc nào không đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, làm nên cốt cách, diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ XX - một thế kỷ dân tộc Việt Nam có vinh dự đánh thắng hai đế quốc to, góp phần bảo vệ hòa bình, đưa Tổ quốc lên một tầm cao, đồng hành cùng nhân loại tiến bộ.

Chú thích

1. Tô Hoài: Sổ tay viết văn; Nxb. Tác phẩm mới; 1977.

2. Báo Dân quân Việt Bắc, số 18; 15-5-1949.

3. Đọc cuốn Vệ quốc quân viết; Tạp chí Cứu quốc; số 19; tháng 4-1949.

4. Vệ quốc quân; số 35; Xuân Kỷ Sửu; 1949.

5. Vài ý nghĩ về văn nghệ mới trong bộ đội; Tạp chí Văn nghệ; số 11-12; tháng 4 và 5-1949.




NHUẬN BÚT


Tác giả: article?img id=1755630
Tiêu đề: Chuyên san KHXH&NV số 12/2019
Ngày xuất bản: ngày 24 tháng 12 năm 2019
Nội dung:

GS. Phong Lê

Người lính trong lịch sử ít có dấu ấn trong văn học. Với văn học cổ điển ta có mấy câu thơ trong bản dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in

Với văn học dân gian, ta có mấy câu ca dao:

Ngang lưng thì thắt bao vàng

Đầu đội nón dấu vai mang súng dài

Một tay thì cắp hỏa mai

Một tay cắp súng quan sai xuống thuyền

Thùng thùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Thời hiện đại, những năm tiền cách mạng, ta có bài Ca binh lính trong chùm 30 bài ca Việt Minh của Hồ Chí Minh:

Hai tay cầm khẩu súng dài

Ngắm đi ngắm lại bắn ai thế này?

Bắn vào quân Nhật, quân Tây

Lũ cướp nước, lũ đọa đầy dân ta.

Khỏi phải bình luận nhiều về nội dung xã hội, giá trị hiện thực và chất lượng nghệ thuật của các áng thơ trên. Câu chuyện ta bàn hôm nay có liên quan đến lịch sử thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (với tiền thân là Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Bác Hồ thành lập năm 1941) trong thời đại Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có thời điểm khai sinh là 22 tháng 12 năm 1944. Đó là lực lượng vũ trang rồi sẽ góp phần quyết định làm nên Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc thoát khỏi ách chủ nghĩa thực dân 80 năm và nghìn năm xã hội phong kiến.

Khi trong đời sống có sự xuất hiện người lính thì tất yếu văn học sẽ cùng song hành để ghi lại dấu ấn, hình ảnh và chân dung người lính trên từng bước hành trình của họ, trong vai trò người Vệ quốc quân, Cảm tử quân, anh Bộ đội cụ Hồ, anh Giải phóng quân qua tất cả các giai đoạn lịch sử xuyên suốt thế kỷ XX.

Ở đây, trong bài này, tôi chỉ giới hạn sự theo dõi và ghi nhận chân dung, dáng nét của họ trong chặng đầu của cách mạng sau 1945, với đôi nét đặc thù, qua sáng tạo của một đội ngũ người viết chuyên và không chuyên trong buổi đầu nền văn học mới.

Người lính trong thơ ở chặng đầu này, qua sáng tạo của một đội ngũ viết như Chính Hữu, Quang Dũng, Hoàng Lộc, Hồng Nguyên, Hoàng Trung Thông, Hữu Loan… chắc chắn nhiều thế hệ độc giả đã rất quen thuộc.

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười hướng phất phơ cờ đỏ thắm

Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

(Chính Hữu)

Tây tiến đoàn quân không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Quang Dũng)

Rất "khẩu khí", rất "yêng hùng" - đó là âm hưởng chung của Chính Hữu và Quang Dũng. Và một chiều khác - đó là mất mát, hy sinh, với Hoàng Lộc trong Viếng bạn; với sinh hoạt đời thường, và tình quân dân thắm thiết như trong Nhớ của Hồng Nguyên, Bộ đội về làng của Hoàng Trung Thông; và "bi lụy" trong Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Tôi đặt trong ngoặc kép mấy đặc trưng - để ghi dấu nhận thức và phán quyết của một thời.

Trong văn xuôi, cần được nói dài hơn; và với văn xuôi cũng đã diễn ra những kiếm tìm của một đội ngũ tác giả đông hơn, gồm cả chuyên và không chuyên. Xin bắt đầu từ Trần Đăng, theo tôi, có lẽ là cây bút đầu tiên cho ta làm quen với anh bộ đội. Là người thủ đô, Trần Đăng viết về anh bộ đội chưa từng biết thủ đô, hoặc có biết thủ đô, nhưng trở về trong tư thế xa lạ và phủ nhận hết thảy mọi ánh sáng phù hoa của đời sống thành thị. Nét đó có phần còn lẫn lộn ít nhiều tâm trạng chủ quan, hoặc nói theo tác giả, còn mang theo cái "xác chủ quan" (Một lần tới thủ đô; 1946).

Cũng Trần Đăng là người, trong quãng đời văn ngắn ngủi của mình, sớm ghi nhận được những nét dáng khác nhau của anh bộ đội đến từ nhiều nguồn. Sự tìm kiếm một chân dung thực về anh bộ đội ở Trần Đăng có lúc ráo riết như một sự săn đuổi. Đại đội trưởng P.N lăm lăm chuôi kiếm, vẻ mặt nghiêm lạnh, lẳng lặng mà nôn nóng, luôn tay nhìn đồng hồ, trong Trận Phố Ràng (1949) là hình ảnh có "nguyên mẫu" trong cuộc đời. Có thể tìm sự tương ứng của anh bộ đội đó trong truyện và ký của Trần Đăng với đồng đội của họ trong thơ, qua hình ảnh "đoàn quân Tây Tiến", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" của Quang Dũng, hoặc "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", với "giày vạn dặm", "bụi trường chinh" trong Ngày về của Chính Hữu. Thế nhưng bên cạnh đại đội trưởng P.N, những binh nhất binh nhì trước trận đánh diễn ra còn cãi nhau châu chấu - cào cào con nào bằng đầu, con nào nhọn đầu, lại là hình ảnh hồn nhiên của một lớp thanh niên vào cách mạng ở tuổi đời còn non trẻ. Cũng những giờ khắc đó, ở cái bút ký có tên Một cuộc chuẩn bị (1949) khó quên câu chuyện ồn ào giữa đám lính, nơi một trạm nghỉ, vào đêm trước ngày ra trận: "Sàn dưới ồn ào chia nhau mấy tấm gỗ không biết vác ở đâu về, hai người ba tấm, ba người hai tấm, làm cho một anh liên lạc đại đội bộ ở trên, ngày trước làm nghề đóng áo ở Phòng ngứa mồm chõ xuống gọi: - Này! Một người thì phải sáu tấm, bốn dài hai ngắn nhớ, ngủ đi nhớ!".

Câu đùa tếu, và cũng có thể là nghiêm chỉnh của anh lính làm nghề đóng áo (tức đóng quan tài) này, đã vào các trang viết của Trần Đăng một cách hồn nhiên. Một khía sống khách quan của thời chiến, nhà văn tinh ý nhặt được. Cũng có thể là một khía sống được soi qua tâm trạng, khi ở cuối thiên ký sự, nhà văn để một dòng lửng lơ: "Mai, một cuộc đời mới nữa, sống hay chết trong đạn lửa".

Dừng lại ở những năm 1948-1949 của văn học kháng chiến chống Pháp, cùng với ký của Trần Đăng, còn có Voi đi của Siêu Hải, Lưỡi mác xung kích, Thư nhà của Hồ Phương, và những trang ghi chép ngắn của không ít cây bút viết văn bộ đội. Đó là lực lượng viết hình thành cùng với kháng chiến, để bổ sung cho đội ngũ chuyên nghiệp còn khá mỏng, và khá đông trong họ còn đang bâng khuâng trong những bước nhận đường. Đó là những sáng tác ra đời với các dấu ấn mới lạ, được giới chuyên nghiệp chào đón nồng nhiệt.

Sự xuất hiện của lớp người trẻ tuổi này hoàn toàn không ngẫu nhiên. Nó có cơ sở trong sự phát triển của phong trào văn nghệ bộ đội. Ở sự đua nở của báo tay, báo tường, thơ ca báng súng. Ở những trang nhật ký, sổ tay của các cây bút đội viên và cán bộ. Điều đáng kể là những giá trị mới mà nó mang lại. Một hơi văn mạnh. Sự chân thật, khoẻ. Một vẻ đẹp hồn nhiên, lắm lúc tự nhiên. Các chi tiết sống lắm khi chưa kịp gọt giũa... Chính từ trong phong trào bộ đội viết, và viết về bộ đội này mà làm nảy nở những cây bút sau này sẽ là đội quân chủ lực của văn học mới chúng ta, mà số lớn rồi sẽ hội về trụ sở 4 Lý Nam Đế, và làm nên "phố nhà binh" ở trung tâm Hà Nội. Nhưng trước khi nói đến đội ngũ này, không được phép quên những người mang niềm khao khát viết mà chưa một lần xuất hiện. Họ đã ngã xuống quá sớm, khi những ước mơ còn chưa kịp hình thành.

Đây là những trang nhật ký ghi ngày 29-12-1948 của Phan Phú, Chính trị viên đại đội một đơn vị chủ lực, hy sinh trong trận Bản Trại, được lưu lại trong sổ tay của Tô Hoài:

... "Chúng tôi cùng một tiểu đội trở vào bản (làng) đi sục sạo từng nhà một. Mỗi khi bước vào một nhà, lại hơi rợn rợn, không biết địch để lại cái gì trong nhà: một tên bị thương liều lĩnh, một vài quả lựu đạn nổ chậm... Trong mấy gian nhà vắng tanh, đồ đạc của chúng tôi vẫn còn bừa bãi: chăn chiếu, ba lô, quần áo, tỏ ra địch chưa kịp lấy một thứ gì cả đã vội phải rút lui. Ánh sáng vẫn chiếu tưng bừng qua kẽ lá, qua mái nhà. Con gà vừa đẻ xuống vẫn cục tác vang lừng. Tôi không lấy làm ngạc nhiên vì cảnh vật có vẻ thanh bình giữa trận ác liệt đang xẩy ra... Tôi lại quay trở lại chỗ đại đội I vẫn đương đánh nhau với Pháp ở sườn đồi trước mặt.

(...)

Chiều hôm qua rời A.T lúc 5 giờ, đoàn quân lại kéo qua P.R theo bờ sông máng. Hai bên đường, trên những ruộng lúa chín vàng, mấy người thợ gặt gái trai đứng nhìn chúng mình. Chiều đẹp quá, êm ả như bất cứ chiều thu nào khác ở thôn quê. Xa xa, bên kia sông, một cứ điểm của Pháp hiện thành một khối vuông trắng xoá giữa các đỉnh đồi trọc. Người dân, những ruộng lúa vàng, cứ điểm địch, và người vệ quốc quân, những hình ảnh ấy hiện ra cùng một lúc, bao hàm bao ý nghĩa"(1).

Và đây là ghi chép của Lê Nguyên - Đại đội trưởng Đại đội 156, Sư đoàn 308, hy sinh ngày 20-3-1949 - được giữ gìn cẩn thận trong ba lô của Trần Đăng.

"Kinh nghiệm trường đời cho biết rằng không nên giãi bày tâm sự mình lên trang giấy, nhưng từ khi vào bộ đội, mình có những xúc động ghê gớm thầy cần phải ghi lại... Trận B.T. mình dẫn bộ đội đánh thốc ngang vào... Tụi địch không biết gì cả. Đấy là lần đầu mình giữ một vai trò quan trọng trong một trận ác liệt... Đến sát đồn, mình thấy ba thằng lính Đức tóc lật ngược trước gió, đứng trên miệng hầm, bên đống lửa rừng rực, lia súng ra phía suối...".

Một mẩu ghi khác có tên Đôi mắt: "Tiểu đội phó N.Đ. Thản có đôi mắt một mí như Nhật vậy. Trời, sao mình yêu đôi mắt hiền từ và đẹp như thế!

Trận B.T. lúc ấy mình chưa cho lệnh bắn. Hắn sướng quá bắn luôn một tràng thompson, thế là lũ giặc bắn như mưa... Thản bị bắn xuyên óc, chết ngồi dựa lưng vào vách đá. Hôm sau địch chạy hết, mình vào chôn cất cho Thản.

Đã có bao nhiêu đôi mắt như đôi mắt của N.Đ.Thản đã nhắm ở chiến trường mà không người vuốt xuống"(2).

Cả Phan Phú và Lê Nguyên đều hy sinh ở Bản Trại, Lạng Sơn. Cả hai cùng viết về những cảm xúc từ đời lính, về những tình huống căng thẳng, và cả những mất mát, hy sinh trong chiến tranh. Điều đáng nói ở đây là một dạng văn theo khuynh hướng mới, chứ không phải văn chương theo khuôn sáo cũ, thường thấy có ở những người mới học viết. Cái chất văn là kết quả của một năng khiếu quan sát tinh tế, tỉ mỉ, kết hợp với một mạch ngầm cảm xúc chân thành. Và nếu ở Phan Phú là khuynh hướng khai thác những sự trạng trái ngược để nói cái chất đời bình thường trong chiến tranh như một hoàn cảnh không bình thường; thì ở Lê Nguyên là sức hút, sức xoáy của chi tiết khách quan - hoà vào một chủ quan giàu sức cảm nghĩ.

Thực ra nói Phan Phú hoặc Lê Nguyên, chỉ là nói một trong số rất nhiều tên, chưa kịp trở thành bút danh. Các sáng tác trong phong trào bộ đội viết này có lúc đã được tuyển chọn trong một tập văn có tên Vệ quốc quân viết, như một bó hoa tươi. Một tập văn từng gây nhiều hứng thú và xúc động cho bạn đọc, và sớm nhận được sự chào đón nồng nhiệt của Nam Cao: "Những người viết cũng như những nhân vật họ tả đều là những con người hành động. Họ hy sinh và đoàn kết, chiến đấu và kỷ luật. Tâm lý họ không phiền phức, rắc rối. Họ giản dị và thiết thực, không viển vông, vơ vẩn...". Để từ nhận xét đó, Nam Cao đi tới sự khẳng định về bản chất cuộc sống mới: "Người anh hùng đã thành thường thấy trong thời kháng chiến này, chính người bạc nhược mới là người hiếm thấy"(3).

Đó là một tập văn đã được chọn tuyển, được in. Còn vô số trang văn khác, trên khắp các báo tay, báo tường. Đến với các đơn vị bộ đội, chăm chú quan sát, đọc, ghi chép, không ít nhà văn đã phải ngạc nhiên vì cái chất mới của người lính mà nó mang lại, để góp vào việc nhận diện gương mặt mới của dân tộc. Tân Sắc "đọc bích báo Tết bộ đội": "Trong tất cả những bích báo Tết năm ngoái của các đơn vị bộ đội mà tôi được đọc, tịnh không có cái "buồn nhớ nhà" của người lính. Những người Binh Nhì, Binh Bét, Vệ Hiếng, Vệ Còm chúng ta tuy có nhắc tới nhà cửa ở xa, nhưng là nhắc với một giọng vui nghịch ngợm, hay là với một sự so sánh ngộ nghĩnh, so sánh cái Tết "mẹ đĩ" với cái Tết "làng Vệ". Để đi đến một nhận định rõ ràng rằng cái Tết "làng Vệ" bao giờ cũng vui hơn, ý vị hơn cái Tết "mẹ đĩ". Phải chăng người lính của chúng ta một khi quen sống cuộc đời bộ đội rồi, cảm thấy rõ ràng gia đình bộ đội là nguồn an ủi dịu dàng, là sự nâng đỡ lành mạnh, là nơi phát huy những tình thương đằm thắm, chân thật, tình yêu đời, yêu nước, yêu bạn, đẹp đẽ, cao hơn trong gia đình thực của mình nhiều"(4). Ở buổi đầu một nền văn học đang trên những bước dò tìm, sự phát triển của phong trào bộ đội viết, hay nói rộng hơn, của phong trào quần chúng viết để hưởng ứng khẩu hiệu "Kháng chiến hoá văn hoá và Văn hoá hoá kháng chiến", quả có một tác động tích cực rõ rệt. Nó giúp cho sự nhận diện gương mặt con người thời đại, như thu hoạch của Tân Sắc, Nam Cao đã kể trên. Nó còn giúp cho sự xác định "con đường đi" chung của "văn nghệ thời đại", như nhận xét của Nguyễn Đình Thi: "Sức hấp dẫn... đối với tôi thật đặc biệt, tuy đó mới là những lời bập bẹ chưa thành hình... Một nghệ thuật còn ròng ròng sự sống, một nghệ thuật chân đứng vững trên mặt đất tưới đẫm mồ hôi và khét tiếng súng, một cái đẹp khoẻ, không khéo léo phấn son, mà mộc mạc, tươi như vừa mới nẩy lên từ một bàn tay hoá công nào, một nghệ thuật vui sống, vui chiến đấu, vui làm lụng, đó là con đường của văn thơ anh binh nhì đã bước lên. Đó cũng là con đường đi của tất cả văn nghệ thời đại"(5).

*   *  *

Từ đây, qua các mốc lịch sử Điện Biên Phủ - 1954, và Đại thắng Mùa Xuân - 1975, đến thời kỳ Đổi mới - 1986 và hội nhập - 1995, kết thúc thế kỷ XX chuyển sang Thế kỷ mới và Thiên niên kỷ mới, đội ngũ nhà văn mặc áo lính không lúc nào không đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, làm nên cốt cách, diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ XX - một thế kỷ dân tộc Việt Nam có vinh dự đánh thắng hai đế quốc to, góp phần bảo vệ hòa bình, đưa Tổ quốc lên một tầm cao, đồng hành cùng nhân loại tiến bộ.

Chú thích

1. Tô Hoài: Sổ tay viết văn; Nxb. Tác phẩm mới; 1977.

2. Báo Dân quân Việt Bắc, số 18; 15-5-1949.

3. Đọc cuốn Vệ quốc quân viết; Tạp chí Cứu quốc; số 19; tháng 4-1949.

4. Vệ quốc quân; số 35; Xuân Kỷ Sửu; 1949.

5. Vài ý nghĩ về văn nghệ mới trong bộ đội; Tạp chí Văn nghệ; số 11-12; tháng 4 và 5-1949.




Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây