HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Cổng Thông tin khoa học công nghệ Nghệ An



BẢN BIÊN TẬP


Người biên tập:
Tên bài: Chuyên san KHXH&NV số 8/2020
Nội dung:

Vũ Thành Trung

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam vốn đã đầy ắp những sự kiện nhưng nó càng trở nên phong phú, sinh động hơn bởi trong đó chứa đựng thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945. Đã 75 năm trôi qua, nhưng tầm vóc, ý nghĩa của những sự kiện lịch sử vĩ đại này vẫn vẹn nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trở lại tình hình, đầu năm 1945, trước thắng lợi của lực lượng "Đồng minh", tình hình thế giới có sự chuyển biến mau lẹ, tạo thuận lợi lớn cho cách mạng Việt Nam. Ở trong nước, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngay trong đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương, thay khẩu hiệu đánh đuổi Nhật - Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật... Đến ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.

Đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương "Tổng khởi nghĩa" của Đảng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(1).

Thực hiện lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam muôn người như một vùng lên, tạo thành ưu thế áp đảo, giáng một đòn quyết định vào các cơ quan đầu não, làm tê liệt mọi sự kháng cự của phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công rực rỡ, chỉ trong một thời gian ngắn, chính quyền của đế quốc, phong kiến và tay sai thống trị gần 100 năm bị đập tan và chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm bị xóa bỏ vĩnh viễn, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ hoàn toàn, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc trong suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951): "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"(2).

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 còn là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, với lực lượng cách mạng là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc. Thời điểm năm 1945, các đảng viên cộng sản dù số lượng còn rất ít, nhưng gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết, bất khuất, kiên cường trước sự đàn áp, tù đày, tra tấn dã man của địch, nhiều người đã hy sinh oanh liệt vì lý tưởng cao đẹp. Cùng với sự đúng đắn đường lối của Đảng, chính những tấm gương bất khuất, kiên cường, hy sinh cao cả của các đảng viên cộng sản đã giác ngộ, lôi cuốn, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tin theo Đảng, tham gia các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo, tạo thành sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam.

Không những vậy, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, "Quốc hiệu Việt Nam" được khôi phục; những giá trị văn hóa cao đẹp của nước Việt Nam được giành lại và phát triển. Mỗi người Việt Nam được Cách mạng tháng Tám mang lại vinh dự và tự hào là dân của một nước độc lập, tự do. Về ý nghĩa dân tộc và quốc tế của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"(3). Tuy nhiên điều đáng nói, từ đây, trong chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, cách mạng Việt Nam có lúc đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", khó khăn chồng chất, nhưng đã làm nên những chiến công vang dội: Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" (7-5-1954); kết thúc cuộc trường chinh vĩ đại chống đế quốc Mỹ xâm lược bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (30-4-1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; tiếp đó là thắng lợi trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Đặc biệt, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn.

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"(4).

Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử, pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc, không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước thế giới mà còn mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta, nhân dân ta trên con đường xây dựng và phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh đó, Tuyên ngôn độc lập là kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ gắn liền với Hồ Chí Minh mà còn mở ra thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Không dừng lại ở đó, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do. Trong hành trình gian khó ấy, có Đảng lãnh đạo, với một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ và phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại, dân tộc ta đã thủ tiêu toàn bộ chế độ thực dân, phong kiến, "lấy lại tên trên bản đồ thế giới". Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà còn làm cho nền văn hiến Việt Nam: "Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững/Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa/Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng/Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa" được khẳng định và lan tỏa cùng thời đại.

Với Tuyên ngôn độc lập, một nước Việt Nam hồi sinh sau bao mất mát, hy sinh tiếp tục hướng đến tương lai tươi sáng, đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong hành trình ấy, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng" trong Tuyên ngôn độc lập; về điều mong muốn cuối cùng "toàn Đảng, toàn dân đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" trong Di chúc gắn với "bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc"(5), coi lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có nghĩa định hướng hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực, Việt Nam đã luôn kiên định và sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước, kể cả các nước có quá khứ là thù địch nhưng công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đó chính là truyền thống bao dung, nhân ái Việt Nam, là xóa bỏ hận thù và gác lại quá khứ để cùng nhau hướng tới tương lai.

Như vậy, với những ý nghĩa bao trùm và mang tính thời đại sâu sắc đó, bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 không chỉ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà còn trở thành ngày Quốc khánh của dân tộc Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương 1, điều 13, mục 4 khẳng định: "Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945".

75 năm trôi qua kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất nước ta đã nỗ lực, phấn đấu vươn lên mạnh mẽ. Đặc biệt, sau hơn 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội. Vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Những thành tựu đạt được từ ngày thành lập nước đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được Việt Nam còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khóa VII vào tháng 1-1994 đã chỉ ra, đến nay vẫn tồn tại và có điểm diễn biến phức tạp. Trong khi đó, tình hình tranh chấp chủ quyền gây căng thẳng trên biển Đông đã và đang đe dọa trực tiếp đến độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Việt Nam.

Trước bối cảnh tình hình đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền biển, đảo, đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, đảo của Tổ quốc. Để hoàn thành sự nghiệp cao cả ấy ngoài phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, việc phát huy những bài học từ lịch sử, những truyền thống quý báu của dân tộc, đặc biệt là tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 có nghĩa đặc biệt quan trọng.

Với tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 bất diệt, kỷ niệm 75 năm những sự kiện trọng đại này chính là dịp để bất cứ người dân Việt Nam nào, đồng bào cả nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng ta và dân tộc ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho dân, cho nước, dẫn dắt Đảng ta, nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và làm "rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Đồng thời, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì nghĩa vụ quốc tế cao cả. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các bậc lão thành cách mạng, các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với nước, cùng toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lao động sáng tạo, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta.

Tóm lại, 75 năm đã trôi qua, nhưng Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 vẫn là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Phát huy tinh thần và những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 chúng ta cần kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; tranh thủ thời cơ thuận lợi, chủ động khắc phục khó khăn, đẩy nhanh phát triển kinh tế, xã hội, chiến thắng đói nghèo, dịch bệnh, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời!

 

Chú thích

(1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.596.

(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.38.

(3). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.25.

(4). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.2,3.

(5). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016, tr.34.

 

Phạm Xuân Cần

Tính cách là một khái niệm thuộc tâm lý học cá nhân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Tính cách. 1. (giáo dục) sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của từng người. Tính cách có khi gọi là tính nết, là nội dung của hành vi và quy định phương thức hành vi đặc trưng của người đó trong những điều kiện và hoàn cảnh sống nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân. Tính cách là thái độ đã được củng cố trong những phương thức hành vi quen thuộc. Phân biệt tính cách và nét tính cách: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các nét tính cách - những thuộc tính nhân cách; nét tính cách là bộ phận của tính cách có ý nghĩa riêng đối với từng trường hợp, từng môi trường, tùy theo nó tương quan như thế nào với những nét tính cách khác"(1).

Nói một cách dễ hiểu nhất, tính cách chính là "cách" thể hiện cái "tính" (hoặc cái nết) của mỗi người. Ví dụ: Nhà có nhiều người con, ai cũng kính yêu bố mẹ, nhưng mỗi người thể hiện tình cảm một cách khác nhau. Mở rộng ra, khái niệm tính cách có thể được vận dụng để nói về tính cách của một nhóm người, một cộng đồng người ở những quy mô khác nhau. Khi đó thực chất tính cách được hiểu là tập hợp những nét tính cách nổi trội, phổ biến của nhóm người đó. Vì vậy, "Tính cách Nghệ" muốn nói ở đây là những nét tính cách nổi trội, mang tính phổ biến của cộng đồng người Nghệ nói chung. Tính cách của một cá nhân, hay của một nhóm, một cộng đồng người sẽ được nhận biết một cách rõ ràng hơn khi đặt bên cạnh, khi tiếp xúc, giao lưu với người khác, nhóm hoặc cộng đồng khác.

Năm 1996, khi công cuộc đổi mới ở nước ta đã bắt đầu đi vào thực chất, với những biến đổi sâu rộng về kinh tế xã hội, những vị lãnh đạo Nghệ An thời đó đã sớm nhận ra cần phải đổi mới ngay chính nhân tố căn cốt nhất của công cuộc đổi mới, đó chính là con người. Chính vì vậy, một chương trình khoa học lớn đã được khởi động. Đó là chương trình nghiên cứu về con người Nghệ An trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chương trình do Trường Đại học Sư phạm Vinh chủ trì, PGS Lê Bá Hán làm chủ nhiệm. Thế nhưng, không phải đến lúc đó vấn đề người Nghệ mới được đem ra giải phẫu, mà từ hàng trăm năm trước cho đến tận ngày nay, tính cách Nghệ luôn luôn khơi gợi được cảm hứng cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tất thảy họ đều quả quyết rằng: Người Nghệ quả thật rất đặc biệt, tính cách Nghệ quả thật rất độc đáo. Những hằng số tính cách Nghệ thường được điểm danh là: Trung dũng; quyết liệt; cần kiệm; khảng khái; hiếu học; giàu chí tiến thủ; chân thành, thẳng thắn; tự trào… Tuy nhiên, bên cạnh những phẩm chất đáng quý đó, người Nghệ cũng có không ít "điểm trừ" trong tính cách. Điều đáng nói là hầu như các phẩm chất của người Nghệ, khi bị đẩy cao lên cực đỉnh lại thành ra là điểm yếu. Quyết liệt quá thì thành ra cực đoan; Thẳng thắn quá thì là thô ráp, cứng nhắc; Cần kiệm quá trở nên ki bo, kẹt xỉn; Khảng khái quá thì dễ là gàn; Kiên định quá thì có khi trở thành bảo thủ; Cố kết cộng đồng quá thì dễ cục bộ, địa phương, kết bè kéo cánh… Trong rất nhiều những nét tính cách được coi là "điểm trừ" của người Nghệ có lẽ gàn và cực đoan là nổi trội hơn cả. "Đồ gàn xứ Nghệ" từ lâu đã là một thương hiệu, một biểu tượng. Bên cạnh đó tính cách Nghệ cũng bộc lộ rất rõ qua giao tiếp ứng xử. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh dùng từ "cứng cỏi" để nói về điều này. Theo ông, trong mỗi con người Nghệ đều có bốn đặc điểm: Có lý tưởng trong tâm hồn; Sự trung kiên trong bản chất; Sự khắc khổ trong sinh hoạt; Sự cứng cỏi trong giao lưuMột nhà nghiên cứu khác cho rằng: Nếu người đồng bằng Bắc bộ có sự ứng xử mềm mỏng, khéo léo, được ông mô hình hóa bằng hình tròn, thì mô hình ứng xử của người Nghệ được ông vẽ bằng hình vuông. Hình vuông thật dễ hiểu, thật bộc trực, thật kiên định, thật chắc chắn, nhưng rõ ràng là khó chuyển động hơn, khó thích nghi, khó hài hòa và dễ gây tổn thương cho người khác hơn so với hình tròn. Trong một xã hội duy tình, ưa chuộng sự hài hòa, thì rõ ràng mô hình giao tiếp ứng xử theo kiểu hình vuông của người Nghệ không phải lúc nào cũng được chấp nhận một cách dễ dàng.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất hiện nay không phải là tổng kết để khẳng định những phẩm chất được coi là hằng số của người Nghệ, hay những tật xấu được cho là cố hữu của người Nghệ. Vấn đề là người Nghệ cần làm gì, cần thay đổi gì để vẫn là người Nghệ, với những hằng số phẩm chất đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, nhưng đồng thời lại là người Nghệ hiện đại, sẵn sàng thích nghi và đáp ứng những yêu cầu của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Con người là sản phẩm của lịch sử. Đối mặt với những hoàn cảnh sống, điều kiện sống mới, tính cách người Nghệ có dịp thử thách và tự biến đổi để thích nghi. Không khó để thấy rằng: Những người Nghệ có sự biến đổi tính cách mạnh nhất chính là những người Nghệ xa quê. Có thể ta vẫn thấy họ vẹn nguyên "lý tưởng trong tâm hồn; sự trung kiên trong bản chất", như giáo sư Vũ Ngọc Khánh nói. Nhưng, hai yếu tố còn lại "sự khắc khổ trong sinh hoạt và sự cứng cỏi trong giao lưu", thì xem ra đã thay đổi rất nhiều. Với người Nghệ ở quê hương, hầu như sự biến đổi về tính cách của mỗi giới, mỗi người tỷ lệ thuận với mức độ giao lưu với bên ngoài của họ. Chúng ta có thể cảm nhận thấy sự biến đổi của tính cách Nghệ, nhất là trong giao tiếp, ứng xử khá rõ nét qua cách sử dụng tiếng Nghệ hiện nay. Về từ vựng, dân ta đã dùng tiếng phổ thông nhiều hơn, nhất là khi giao tiếp với người ngoại tỉnh. Về âm điệu, giọng nói của dân mình cũng không thật nặng và khó nghe như trước. Về phong cách, những người giao tiếp nhiều với bên ngoài cũng đã tiết giảm được cả về âm lượng và tốc độ phát âm. Có thể nói đó là những chỉ dấu rất tích cực, cho thấy người Nghệ đang tự điều chỉnh mình, sao cho vừa giữ bản sắc, vừa thích nghi với điều kiện mới.

Một phẩm chất nổi trội của người Nghệ là hiếu học. Thậm chí có nhà nghiên cứu đã nói, người Nghệ đã biến sự học thành đạo học. Thế nhưng, mới cách đây mười mấy năm thôi vẫn có nhiều nhà nghiên cứu, nhà sư phạm than phiền rằng hiếu học của người Nghệ là hiếu học lệch lạc, là chỉ hiếu học theo kiểu tầm chương trích cú, học để lập ngôn, lập danh, chứ không học để lập nghiệp. Thế rồi, chính cuộc sống đã buộc người Nghệ phải xem lại sự hiếu học của mình. Nếu như mười mấy năm trước, gần như 100% học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đều dự thi đại học, thì liên tục trong mấy năm gần đây tỷ lệ đó chỉ còn trên dưới 60%. Điều này cho thấy người Nghệ vẫn rất hiếu học, đất Nghệ vẫn là đất học, nhưng đạo học xứ Nghệ đã được điều chỉnh về mục tiêu theo hướng thiết thực và gia dụng hơn.

Đó là những tín hiệu rất tích cực, cho thấy tính cách Nghệ cũng có khả năng điều chỉnh, biến đổi theo hướng thích nghi ngày càng tốt hơn với kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập. Tuy nhiên, quá trình biến đổi đó rất cần được nhận thức và định hướng một cách đúng đắn và chủ động. Ít ra là trên truyền thông hãy giảm bớt những bài ca về người Nghệ cao đẹp, hãy nói nhiều hơn đến những thói hư tật xấu, những "điểm trừ" trong tính cách Nghệ, để gột rửa và điều chỉnh. Tham gia Hội đồng thẩm định chương trình, tôi đã đề xuất đưa nội dung về Người Nghệ và Tính cách Nghệ vào chương trình Giáo dục địa phương của tỉnh Nghệ An, để các cháu biết sớm nhận diện mình. Hãy đầu tư nhiều hơn, đúng hướng hơn cho giáo dục, để đạo học xứ Nghệ không còn lệch lạc, phiến diện. Nhưng, quan trọng nhất vẫn là tìm mọi cách mở rộng giao lưu, hội nhập, đưa cả nước, đưa cả thế giới đến với người Nghệ và đưa người Nghệ đến với cả nước và thế giới. Trong môi trường hội nhập sâu rộng đó, người Nghệ không chỉ thấy rõ mình hơn, mà đồng thời vừa biết tự vệ để mình vẫn là mình, vừa biết biến đổi để ít nhất là thích nghi, cao hơn là trở thành công dân toàn cầu. Hơn một trăm năm trước, những nhà đầu tư đến từ Pháp, Ấn, Trung Hoa, Hà Nội, Nam Định… đã tạo cú hích lớn để định hình nên một đô thị Vinh - Bến Thủy về kỹ nghệ và thương mại mang kích cỡ Đông Dương. Nhưng chính đô thị đa văn hóa Vinh - Bến Thủy trong thời kì đó, đến lượt nó lại tác động mạnh mẽ đến giao tiếp, ứng xử của người Nghệ, góp phần tạo nên những trí thức, nhà doanh nghiệp lừng danh và một thế hệ thị dân "đời đầu" ở Vinh rất Nghệ, nhưng cũng rất cách tân. Chúng ta đã từng có những Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, hay gần hơn, những Nguyễn Xiển, Nguyễn Mạnh Cầm, Trương Đình Tuyển, Đặng Thai Mai,… rất Nghệ, rất Việt, nhưng cũng rất quốc tế.

Tính cách Nghệ không chỉ hun đúc, chưng cất và lắng đọng lại thành bản sắc văn hóa xứ Nghệ không thể lẫn lộn với ai, mà chính nó cũng đã và đang biến đổi theo chiều gạn đục khơi trong. Cho nên, câu chuyện tính cách Nghệ, vì vậy cũng không phải chỉ là câu chuyện của lịch sử và hoài niệm, mà quan trọng hơn đó là câu chuyện của cuộc sống đương đại và tương lai.

 

Chú thích:

(1). Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005.

 

Trương Văn Dũng

1. Khái quát về tính cách người Nghệ An

Tính cách con người nó được hình thành và phát triển gắn với sự hình thành và phát triển của văn hóa vùng, miền, quốc gia dân tộc và đặc biệt những nét tính cách tốt đẹp được bồi đắp và phát huy, hoàn thiện và phát triển, còn cái tính cách gọi là "thói hư, tật xấu" dần được loại bỏ, thay vào đó là những nét tính cách phù hợp với xu hướng và thời đại. Và không nằm ngoại lệ, tính cách người Nghệ cũng được hình thành và phát triển cách đây hàng trăm năm. Và nói đến tính cách, hay bàn về tính cách người Nghệ thì cho đến nay đã có không ít các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, chuyên gia, với nhiều công trình, bài viết khá công phu, đầy đủ, chẳng hạn: Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828), GS. Đặng Thai Mai, GS. Vũ Ngọc Khánh, GS. Phong Lê, Nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Đào Nguyên,… Từ các nghiên cứu đó cho chúng ta thấy, ngoài đặc tính chung của người Việt, thì người xứ Nghệ có những đặc tính riêng, khá độc đáo, khác biệt với các vùng khác. Tính cách khác biệt đó khá rõ ràng và chúng ta có thể khái quát những nét tính cách cơ bản, nổi trội của người Nghệ: Ham hiểu biết, học giỏi, đỗ đạt cao, có nhiều cống hiến cho đất nước; Chăm làm, cần cù, nhẫn nại, chịu khổ, chịu khó nên có thể sống và lập nghiệp được ở bất cứ nơi nào; Khảng khái, trọng danh dự, dũng cảm, có bản lĩnh, sẵn sàng hy sinh quyền lợi vật chất để có được sự thanh thản trong đời sống tinh thần; Yêu nước, yêu quê, mộc mạc, chân thành, tình nghĩa, có tinh thần đoàn kết bảo vệ lẫn nhau; Coi trọng nề nếp gia đình, cần kiệm, chắt chiu, biết lo toan nên luôn luôn vượt qua gian khó… Đây chính là những tính cách đã làm nên vẻ đẹp, sự thanh tao của con người xứ Nghệ. Với những tính cách tốt đẹp, nổi trội đó, người Nghệ luôn đi đầu trong các cuộc kháng chiến, các phong trào cách mạng và luôn có mặt ở những nơi khó khăn ác liệt nhất. Và cũng chính nhờ đó mà người Nghệ luôn được tôn trọng, được ca ngợi, vinh danh trên nhiều phương diện (chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…). Qua các nghiên cứu, phần đông đều cho tính cách ấy là do thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống nghèo khổ tạo dựng nên. Còn theo chúng tôi, tính cách người Nghệ đó là sự cộng hưởng của hàng loạt nhân tố hội tụ Thiên - Địa - Nhân, hay nói cách khác là bị quy định bởi các nhân tố địa tự nhiên, địa kinh tế và địa nhân văn rất riêng của người Nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những nét tính cách nổi trội đó, ở người Nghệ cũng tồn tại không ít nhược điểm như: Nóng nảy, cục cằn, tự kiêu, tự mãn, bảo thủ, keo kiệt v.v. Cũng chính những nhược điểm này khiến người Nghệ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, hòa nhập với các vùng miền trong mọi mối quan hệ, thậm chí kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội… Chẳng hạn, những năm gần đây có hiện tượng một vài nơi vẫn có thành kiến với người Nghệ, họ cho rằng người Nghệ khó tiếp thu, khó hòa nhập, vì thế mà không nhận công nhân, lao động là người Nghệ. Nhưng dưới góc độ nghiên khoa học, chúng tôi cho rằng đây là quan điểm thiên vị, thiển cận và thậm chí là sai lầm.

Chúng ta biết rằng, tính cách của con người, ở một vùng miền nào đó, thậm chí quốc gia nào đó đều được hình thành từ hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm trước. Đúc kết từ thực tiễn, người ta cho rằng, người Nghệ đều tỏ ra giỏi giang trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, nghệ thuật, thể thao… , còn trong lĩnh vực kinh tế thì người Nghệ thường tỏ ra kém cỏi, ít năng động nên cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng họ suốt đời. Có lẽ do sự khắc nghiệt của thiên nhiên khiến người Nghệ thường có khả năng chịu khó, chịu khổ, từ đó mà người ngoài, khi nhìn vào nghĩ là họ keo kiệt, bủn xỉn. Nhưng thực chất người Nghệ rất phóng khoáng, rất tình người, họ ít toan tính cá nhân mà thiên về chia sẻ lợi ích cộng đồng nhiều hơn.

Do đó, ở Việt Nam, hầu như không ai bàn cãi về việc người xứ Nghệ có những đặc tính riêng, mà người ta mặc nhiên công nhận người Nghệ có nhiều nét khác với những người vùng miền khác. Đúng, điều đó không phải ngẫu nhiên mà người ngoài tỉnh khi tiếp xúc người Nghệ thì biết ngay là người Nghệ, có thể qua ngoại hình, giọng nói, qua diễn ngôn hay có thể qua tính cách hoặc người ta nghĩ ngay đến một số hình ảnh, đặc sản, cảnh vật thậm chí là một số giai thoại… Cái quan trọng hơn cả mà người ngoài nhận biết được "tính cách Nghệ" là vì: nét tính cách của người Nghệ đã được kết tinh thành những giá trị văn hóa tương đối bền vững. Chúng ta cần phải khẳng định rằng tính cách đặc trưng của người Nghệ là một nét văn hóa độc đáo, ở trong đó, họ đã tự xây dựng cho mình một bộ tiêu chí lựa chọn. Để rồi, từ đó biến nó thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân xứ Nghệ đang hiện có như ngày nay.

Ngày nay, nhìn toàn cảnh bức tranh kinh tế, xã hội Nghệ An thay đổi từng ngày từng giờ, chúng ta có thể nhận ra một điều rằng: không ai có thể làm hoặc yêu cầu người Nghệ thay đổi tính cách của họ, mà chính nền kinh tế thị trường đã tác động đã làm thay đổi tính cách của chính bản thân họ. Nghĩa là khi "đối diện" với kinh tế thị trường, tính cách của người Nghệ đã thực sự có thay đổi đáng kể. Không còn bó hẹp trong phạm vi tỉnh nhà, mà người Nghệ đã tỏa đi khắp mọi miền đất nước thậm chí ra nước ngoài để lập nghiệp. Họ đã có cái nhìn thấu đáo, khách quan, họ nhận ra những mặt yếu, mặt mạnh, cái hay, cái dở trong tính cách của mình để thích ứng (hay còn gọi là đối diện) với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể - điều kiện kinh tế thị trường. Ngày nay, không ít người Nghệ đi làm ăn xa quê hương đã rất thành đạt, thậm chí có rất nhiều người xuất sắc. Và họ không chỉ hiến kế (góp ý), mà còn sẵn sàng đầu tư, góp sức để phát triển kinh tế, xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, như: Phạm Nhật Vượng, Lê Thanh Thản, Thái Hương... Cùng với bức tranh kinh tế (thành tựu), chính trị, xã hội hiện tại của Nghệ An, người ta phải thừa nhận rằng, người Nghệ thông minh và có ý chí nên khi họ tập trung vào lĩnh vực nào thì họ đều có thể thành công. Qua đó, chứng minh một điều rằng, chính người Nghệ chỉ ra cái hay, cũng như cái dở của mình, và những cái hay "nổi trội" đã được phát huy một cách có hiệu quả. Và cái đáng trân trọng hơn nữa đó là, mặc dù thành đạt, thậm chí rất thành đạt nhưng nhiều doanh nhân người Nghệ hiện vẫn giữ được tính cách đặc trưng, cốt lõi của họ.

2. Tính cách người Nghệ đối diện với kinh tế thị trường

Trước hết, chúng ta cần phải làm rõ thuật ngữ "đối diện". Theo Đại từ điển tiếng Việt, "đối diện" nghĩa là ở ngay vị trí trước mặt; trực tiếp quay vào nhau....      Trong trường hợp "đối diện" với kinh tế thị trường, thì theo chúng tôi, đó là đối diện với các quan hệ kinh tế, với các hình thức sở hữu, cách thức, phương thức sản xuất, kinh doanh (nghệ thuật kinh doanh), đối diện với sự thay đổi của khoa học, kỹ thuật, việc áp dụng, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, các quan hệ cung cầu, kích thích tăng trưởng, vận dụng các đòn bẩy kinh tế, kể cả đối diện với các rủi ro v.v… Do đó, tính cách người Nghệ lúc này đòi hỏi phải có sự thay đổi, thậm chí thay đổi căn bản để thích ứng với sự vận động của kinh tế thị trường. Tức là phải thay đổi để mở rộng, nâng cao khả năng nắm bắt, tiếp cận kịp thời và đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thị trường.

Nhìn vào thực tế cuộc sống, tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng của Nghệ An trong những năm gần đây có thể khẳng định tính cách "nổi trội" của người Nghệ đã có nhiều thay đổi quan trọng, lãnh đạo cũng như người dân xứ Nghệ đã nhận ra và biến "triển vọng và tiềm năng" thành hiện thực, nghĩa là họ đã phát triển kinh tế, đưa thu nhập bình quân đầu người tăng lên, giảm nghèo, vươn lên làm giàu…

Nhìn lại thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2010-2015 và giai đoạn 2015 đến nay, chúng ta thấy một sự tăng trưởng, bứt phá ngoạn mục của người Nghệ "Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 29 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2010"(1). Đáng chú ý là sự tăng trưởng kinh tế đáng kể của khu vực miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể là, thu nhập bình quân đầu người vùng dân tộc thiểu số 2018 đạt 29,09 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 3-4%(2). Với kết quả này, rõ ràng chúng ta thấy, nếu không có sự thay đổi, thích ứng với các điều kiện của kinh tế thị trường để đưa ra các giải pháp kích cầu, thu hút đầu tư, phát huy các tiềm năng, lợi thế, gác lại những cái gọi là "nhỏ nhen, hẹp hòi ích kỷ" thì làm sao có được kết quả như vậy được.

Khi đối diện với kinh tế thị trường, chúng ta thấy những tính cách "nổi trội" của người Nghệ được thay đổi cả từ nội dung cho đến hình thức, hay nói cách khác trong các quan hệ kinh tế, dịch vụ: từ lời nói, hành vi, giao tiếp và mọi xử sự đều đã thay đổi, mềm mại, nhã nhặn, lịch sự văn minh đã thay cho sự nóng tính, thô kệch, cục cằn, cứng nhắc của năm nào. Điều đó được thể hiện, phản ánh nổi bật nhất trong ngành công nghiệp không khói (Dịch vụ du lịch). Theo thống kê của tỉnh, những năm gần đây, lượng khách du lịch đến Nghệ An ngày càng đông, "Năm 2019, du lịch Nghệ An đã đón và phục vụ 6.530.000 lượt khách du lịch với 4.700.000 lượt khách lưu trú, trong đó, khách quốc tế đạt 145.000 lượt. Tổng thu du lịch ước đạt 8.800 tỷ đồng, trong đó doanh thu các dịch vụ du lịch ước đạt 4.580 tỷ đồng. Đây được coi là tiền đề để phấn đấu năm 2020 đón khoảng từ 5 - 5,1 triệu lượt khách du lịch lưu trú, trong đó có 170 ngàn khách quốc tế; doanh thu dịch vụ du lịch ước đạt 5.260 tỷ đồng, tiếp tục hướng tới mục tiêu đưa du lịch Nghệ An trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác ở địa phương…."(3).

Nhìn vào các kết quả nói trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, khi đối diện với kinh tế thị trường thì tính cách và khả năng người Nghệ hoàn toàn đáp ứng được, thậm chí là đáp ứng tốt. Để biến tiềm năng của thiên nhiên và con người thành những giá trị vật chất cụ thể, người Nghệ đã có sự điều chỉnh, thay đổi lớn trong cách nghĩ, cách làm. Và thành tựu kinh tế xã hội hiện nay của Nghệ An đã chứng minh rằng, khi đối diện với kinh tế thị trường người Nghệ đã phát huy được những nét tính cách tốt đẹp, truyền thống cùng với học hỏi kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa chính trị của "mình" để xây dựng và phát triển nhanh, mạnh, vững chắc kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần chung vào sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Qua đó cũng cho thấy rằng, người Nghệ làm cái gì, tiếp thu cái gì cũng nhanh, do đó, khi đối diện với kinh tế thị trường thì người Nghệ cũng sẽ thích ứng rất tốt. Với diện mạo hiện tại, người Nghệ đã và đang dần xóa bỏ những nét tính cách lạc hậu, cổ hủ và thay vào đó là những nét tính cách theo chiều hướng khá tích cực. Hay nói cách khác, người Nghệ đã có rất nhiều thay đổi, đặc biệt họ tỏ ra rất linh hoạt, thích ứng kịp thời, sửa sang để đối diện với mọi hoàn cảnh được cho là thiên biến của kinh tế thị trường. Đặc biệt là xóa đi tư tưởng hiềm khích, hoài nghi trước đây người Nghệ làm kinh tế yếu hơn, còn người Nghệ bây giờ giao lưu nhiều, nhạy bén hơn, tư duy kinh tế tốt hơn và khi đã quyết tâm thì họ sẽ làm bằng được và có thể thay đổi cuộc sống nhanh chóng từ thái cực này sang thái cực kia. Đây chính là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tính cách người Nghệ, khác với trước kia, khi mà "tính thực dụng" đang được vận dụng một cách hiệu quả khi đối diện với kinh tế thị trường.

Suy cho cùng, tính cách nói chung của con người và của người Nghệ nói riêng đều là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tính cách tất nhiên sẽ có những biến đổi để thích ứng. Tính cách người Nghệ là kết quả của quá trình lịch sử - tự nhiên, do vậy những nét nổi trội nói trên sẽ là một ưu thế mà người Nghệ có quyền tự hào khi đối diện với kinh tế thị trường. Trên cơ sở phát huy thế mạnh đó, người Nghệ cũng đã thu hẹp lại được khoảng cách, cản trở, thành kiến không tốt trước đây đối với người Nghệ về tính "tự mãn, hẹp hòi, bảo thủ, cục bộ địa phương…" và các nhà đầu tư, nhà kinh tế cũng như khách thập phương về Nghệ An mà không còn e ngại.

3. Những vấn đề đặt ra

Trong bối cảnh kinh tế thị trường, có nhiều mặt trái đang tác động tiêu cực tới con người, làm thay đổi không ít các mối quan hệ truyền thống, tốt đẹp, thay vào đó là các quan hệ đặt trong sự ràng buộc, chi phối của đồng tiền và hiển nhiên tính cách con người cũng sẽ bị thay đổi. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử giữa người với người. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Đáng chú ý là sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường cũng đã bắt đầu có sự thay đổi trong tinh thần chia sẻ với cộng đồng. Trước đây, sự chia sẻ cộng đồng của người Nghệ rõ ràng hơn (không so bì hơn kém), còn bây giờ thì theo "quan hệ kinh tế" hơn nhiều. Tất nhiên ở đây có thể là do sự thay đổi về thiết chế xã hội, tác động của kinh tế thị trường, sự phân tầng xã hội tác động đến các "không gian riêng" từng gia đình. Do đó, cần phải có những biện pháp giáo dục cụ thể để cho các thế hệ tiếp sau có tính trách nhiệm cao hơn, khát vọng cháy bỏng hơn và giàu tinh thần cống hiến cho xã hội hơn, không nên giáo điều và háo danh, đánh mất đi tính cách tốt đẹp của người Nghệ. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống... một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà trường lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng những không sớm được ngăn chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng. Vấn đề đặt ra ở đây, chính là vấn đề quan hệ con người trong nền kinh tế thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình, đối với cộng đồng và toàn xã hội.

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Nghệ An đã và đang triển khai, phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm, để tận dụng lợi thế "tiềm năng sẵn có" và tiếp tục phát huy tính cách nổi trội của người Nghệ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, theo chúng tôi, người Nghệ cần:

- Tiếp tục mở rộng cửa để người ngoại tỉnh, người nước ngoài đến làm ăn ở Nghệ An, qua đó, một mặt đóng góp tăng trưởng kinh tế cho tỉnh, mặt khác cũng là cơ hội để giao lưu, hợp tác, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, từ đó có thể "tiếp nhận" những tố chất tốt đẹp đến cho người Nghệ.

- Hạn chế những tiêu cực, phát huy những điều tích cực trong tính cách người Nghệ để thích ứng (hay đối diện) với kinh tế thị trường thì người Nghệ cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, giáo dục từ trong gia đình, nhà trường và xã hội, lắng nghe ý kiến phản biện trái chiều của đối tác, khách hàng trong mọi mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Phát huy nét tính cách tốt đẹp vốn có của người Nghệ "nói đi đôi với làm", để đối tác của kinh tế thị trường chấp nhận hợp tác, đầu tư cùng có lợi…

- Tiếp tục vinh danh những nhân tố (nhân tài) mới, tạo dựng các phòng trào "cần vương" trong kinh tế thị trường hiện đại để các thế hệ sau noi theo học hỏi, nhân lên sức mạnh truyền thống của quê hương (lòng tự hào, tự tôn cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển rất mạnh mẽ). Học tập được xem là một phương thức tối ưu nhất để thoát nghèo, thoát khổ, vươn cao bay xa, khẳng định sức mạnh của con người về mặt trí tuệ. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích rõ ràng, cụ thể để chiêu hiền đãi sĩ về đầu tư, xây dựng và phát triển quê hương.

Thực hiện được những vấn đề nêu trên cũng chính là thực hiện Nghị quyết số 05 ngày 14/12/2016, của Tỉnh ủy Nghệ An về việc xây dựng con người và gia đình Nghệ An trong thời kỳ mới cũng đã đưa ra một hệ thống các phẩm chất của người Nghệ. Trong xây dựng chính sách cần quan tâm yếu tố kinh tế trong tính cách cốt lõi của người Nghệ và ngược lại lấy tính cách cốt lõi của người Nghệ để làm mục tiêu phát triển kinh tế.

Kết luận

- Qua nghiên cứu, phân tích và viện dẫn nói trên, khi đối diện với kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, người Nghệ, một mặt vẫn giữ được tính cách cơ bản, đặc trưng, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, nhưng họ đã có những thay đổi rất linh hoạt, thậm chí đạt trình độ nghệ thuật cao trong ứng xử với các quan hệ kinh tế thị trường và sử dụng nó như một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, họ đang dần hạn chế đi tính cục bộ địa phương, tính khí bộc trực, bảo thủ, cục cằn, thô kệch, tằn tiện… Đó là tính cách mạnh mẽ của người Nghệ trong thời đại công nghệ 4.0.

- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi thế hệ trẻ, người lao động, đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhà nước phát triển cả đạo đức và nhân cách một cách toàn diện. Đó là đạo đức trung thực, đạo đức trong lời nói, hành động, tự giác trong lao động và học tập, phải gắn kết giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động. Tính cách có tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa nếu không gắn với thực tiễn vận động và phát triển thì không thể phát huy được, không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Để làm được điều này, người Nghệ An chỉ có thể trên cơ sở khai thác hiệu quả nội lực, đặc trưng nét tính cách, văn hóa bao đời của mình, để phát triển lên một tầm cao mới góp phần xây dựng Nghệ An ngày càng phồn vinh và thịnh vượng.

 

Chú thích

(1). Thành Duy, "GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi trong 5 năm". Nguồn: https://baonghean.vn/nghe-an-gdp-binh-quan-dau-nguoi-tang-gap-doi-trong-5-nam-83642.html. Cập nhật ngày 06/10/2015.

(2). Đào Tuấn "Tập trung các giải pháp cho nhân dân các dân tộc tỉnh Nghệ An hội nhập và phát triển". https://baonghean.vn/tap-trung-cac-giai-phap-cho-nhan-dan-cac-dan-toc-tinh-nghe-an-hoi-nhap-va-phat-trien. Cập nhật ngày 12/09/2019.

 (3). Nguồn: https://truyenhinhnghean.vn/kinh-te/tin-tuc/202005/nghe-an-ban-giai-phap-thuc-day-du-lich-noi-dia-va-phuc-hoi-du-lich-quoc-te-hau-dich-covid-19-c61172f/.

Mai Văn Hải

Tính cách vùng miền, tính con người địa phương nói riêng và tính cách dân tộc nói chung luôn là một trong những đề tài hấp dẫn và được quan tâm tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau như tâm lý học, dân tộc học, văn hóa học… Thông qua việc làm rõ tính cách một vùng đất, một địa phương cụ thể, người ta có thể hiểu được các đặc điểm văn hóa, bản sắc con người, cách nghĩ, cách sống của những con người trên địa bàn, vùng đất đó.Tính cách là sản phẩm, là sự kết tinh của các đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoạt động sống của con người trên vùng đất đó; nhưng cũng đồng thời là nguồn vốn xã hội, là nội lực bên trong của con người trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa cũng như phát triển kinh tế - xã hội địa phương.Từ góc độ lý luận về tính cách trong tâm lý học, bài viết dưới đây xin bước đầu nêu ra một vài ý kiến về tính cách dưới góc độ tâm lý học cá nhân và tâm lý học xã hội.

1. Tính cách dưới góc độ tâm lý học cá nhân

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tính cách. AG. Covaliov, nhà tâm lý học người Nga cho rằng cấu trúc nhân cách con người gồm 4 thành phần chính: khí chất, tính cách, xu hướng và năng lực. Như vậy, theo quan điểm này, tính cách là một mặt của nhân cách con người.

Là một phần của nhân cách, vì vậy tính cách có tính ổn định và bền vững. Tính cách thể hiện trong hệ thống thái độ của cá nhân với hiện thực xung quanh, thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Nói cách khác, những thái độ và hành vi thể hiện bên ngoài không phải là những tình huống, cách thể hiện ngẫu nhiên mà ổn định và bền vững, đặc trưng cho cá nhân đó thì ta coi đó như tính cách con người. Như vậy, tính cách phải thể hiện trong hệ thống hành vi. Nếu không xem xét hành vi của cá nhân đó thì không thể hiểu về tính cách của họ. Mặt khác, những hành vi của cá nhân thể hiện thái độ sống của cá nhân với bản thân, người khác và xã hội nói chung. Những hành vi, ví dụ buổi sáng ngủ dậy đánh răng rửa mặt vốn không hàm ý những giá trị xã hội mà cá nhân đó theo đuổi, vươn tới thì không coi là tính cách.

Phân tích như vậy, ta có thể nói: Tính cách là những thuộc tính tâm lý tương đối ổn định của cá nhân, biểu hiện thái độ của con người đối với hiện thực và được thể hiện trong hành vi, trong cử chỉ của họ (Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Lê Khanh, 1989).

Tính cách của con người không phải là cái gì nhất thành, bất biến mà tính cách của con người được hình thành và phát triển trong điều kiện sống và hoạt động của cá nhân. Một con người từ khi mới sinh ra không phải đã có ngay những đặc điểm như trung thực, yêu lao động, dũng cảm, lười biếng… Những phẩm chất ấy được hình thành trong quá trình cá nhân sống và làm việc trong một môi trường và bối cảnh xã hội nhất định. Con người là một thực thể xã hội, vì vậy, đặc điểm tâm lý, tính cách con người cũng được hình thành gắn liền với môi trường, địa phương con người đó được sinh ra, lớn lên. Chính vì vậy, việc nắm rõ, hiểu rõ đặc điểm môi trường sống, các mối quan hệ xã hội của cá nhân là cơ sở để ta có thể hiểu rõ đặc điểm tính cách con người trong các tình huống nhất định.

Như chúng ta đã đề cập ở trên, tính cách con người là một cấu trúc phức tạp, là sự khái quát hóa của nhiều nét tính cách ổn định. Trong những tình huống nhất định, một người dũng cảm có thể nhút nhát và ngược lại, người nhút nhát có thể trở nên mạnh mẽ, dũng cảm. Vì vậy, xem xét tính cách con người phải đặt nó trong hệ thống tổng thể. Tất cả những nét tâm lý nào đó, một khi đã trở thành đặc trưng của con người, tạo nên nét tính cách con người đó. Các nét tính cách này kết hợp lại với nhau theo một phương thức nhất định gọi là tính cách con người. Nói cách khác, nói đến tính cách là nói đến tổng thể những nét tính cách tạo nên một đơn vị thống nhất.

Về mặt cấu trúc, tính cách thường được xem xét ở hệ thống thái độ và hệ thống hành vi tương ứng. Hệ thống thái độ của tính cách thể hiện ở các mặt như thái độ với tập thể, với xã hội nói chung. Ở mặt này, thái độ thể hiện trong tình cảm nhân văn, trung thực hay không trung thực… Mặt thứ hai của thái độ thể hiện ở thái độ với lao động như cần cù chăm chỉ hay lười biếng, tiết kiệm kỷ luật hay không kỷ luật… Mặt thứ ba của thái độ thể hiện trong mối quan hệ người với người như thẳng thắn hay không, đoàn kết gắn bó với bạn bè đồng hương hay thờ ơ bàng quan… Mặt thứ tư của thái độ thể hiện trong mối quan hệ với chính bản thân chủ thể: họ khiêm tốn hay kiêu ngạo, nghiêm khắc hay dễ dãi với bản thân, có chí tiến thủ hay buông xuôi. Tất cả những thái độ nói trên thể hiện một cách nhất quán qua hành vi. Người có thái độ sống giàu lòng vị tha, tôn trọng người khác thì hệ thống hành vi của họ cũng tương ứng như vậy. Hành vi là mặt biểu hiện ra bên ngoài, thống nhất hữu cơ với mặt bên trong là hệ thống thái độ của con người (Nguyễn Quang Uẩn, 2001).

Ngoài quan điểm nói trên, khi xem xét tâm lý cá nhân, người ta thường dùng tới thuật ngữ "traits" tức các nét đặc điểm tâm lý. Theo hướng này, mô hình năm yếu tố (big five) được sử dụng nhiều, gồm: tính hướng nội hay hướng ngoại (nói nhiều hay ít nói, cẩn thận hay ưa mạo hiểm, cởi mở hay giữ kẽ…); tính ổn định cảm xúc (bình tĩnh hay lo lắng, điềm tĩnh hay dễ bị kích động…); sự dễ chịu hay không dễ chịu (hợp tác hay bất hợp tác, hòa nhã hay bướng bỉnh…); tính cởi mở hay không cởi mở (giàu tưởng tượng hay đơn giản, hiểu biết hay thiếu hiểu biết…); sự tận tâm hay không tận tâm (có trách nhiệm hay không có trách nhiệm, tỉ mỉ hay cẩu thả…).

Nói tóm lại, dưới góc độ tâm lý học cá nhân, tính cách là một khái niệm thể hiện những đặc trưng riêng về hệ thống thái độ và hành vi của con người trong mối quan hệ với bản thân và thế giới xung quanh. Việc xem xét tính cách cá nhân đòi hỏi phải hiểu được môi trường sống và hệ thống hành vi, hệ thống thái độ trong nhiều bối cảnh, tình huống khác nhau.

2. Tính cách dưới góc độ tâm lý học xã hội

Dưới góc độ tâm lý học xã hội. Tính cách dân tộc hay tính cách con người ở một vùng miền, một địa phương nhất định được thể hiện trong những đặc điểm mang tính bản sắc, đặc điểm văn hóa của con người trong vùng miền hay dân tộc đó. Phạm Xuân Nam (2008) cho rằng mỗi dân tộc có bản sắc độc đáo riêng... Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc biểu hiện ở mỗi dân tộc trong lịch sử và phát triển của dân tộc, đồng thời giúp dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính duy nhất, tính nhất quán, tính độc đáo của bản thân mình trong quá trình phát triển. Như vậy, tính cách con người trong một dân tộc, một cộng đồng đã mang trong mình những đặc điểm chung về mặt văn hóa, bản sắc của dân tộc, cộng đồng đó.

Nói về tính cách dân tộc, Gannhiep cho rằng: Tính cách của dân tộc, tư tưởng và văn hóa là một cái gì đó "rất khôn khéo". Khi ta biết anh ta là ai và khi đó muốn gọi anh ta bằng từ nào đó mà cảm thấy rất khó thì thường nói tới cái chung nhất không chỉ đối với anh ta, mà chung cho cả dân tộc (Gannhiep, 1988). Theo nhà tâm lý học Nga T.G. Stefanenko (2003), tính cách dân tộc bị quy định bởi các nguyên tắc sau: Thứ nhất, tính cách dân tộc không phải là tổng số tính cách của từng thành viên của nó mà là những nét điển hình được thể hiện ở một số lượng lớn các thành viên của dân tộc đó. Thứ hai, không nên xem xét những nét nào đó là cái tiêu biểu cho một cộng đồng dân tộc. Ví dụ, tính kỷ luật không phải là nét tính cách quan trọng nhất của dân tộc Nhật và dân tộc Đức mà là nét tính cách chung cho nhiều dân tộc trên thế giới. Thứ ba, các nét tính cách có thể hiểu là tổng số các giá trị phụ thuộc vào điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội, lối sống và tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Từ việc xem xét các nội dung nói trên, Vũ Dũng (2009) cho rằng tính cách dân tộc là những đặc điểm tâm lý bền vững của một dân tộc, được hình thành và biểu hiện trong hoạt động thực tiễn và trong giao tiếp.

Margaret Mead (1953) cho rằng những nghiên cứu về tính cách dân tộc là một thử nghiệm nhằm tìm ra cái cách mà ứng xử văn hóa được nhận biết hiện trong cấu trúc nội tâm thần của các cá nhân thành viên của nền văn hóa ấy. Khái niệm tính cách văn hóa chỉ toàn bộ những nét cá tính điều hòa trong ứng xử của những thành viên thuộc cùng một đơn vị xã hội và được tổ chức thành một "cấu trúc tính cách văn hóa". Nói đúng hơn, đó là một sự trừu tượng hóa, một công cụ khái niệm dùng để chỉ cá tính nội tâm riêng của một tập hợp các cá nhân cùng chia sẻ một nền văn hóa tổng thể giống nhau: văn hóa dân tộc.

Trong khi nghiên cứu về tính cách dân tộc, tính cách cộng đồng, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới coi tính cách là một trong những đặc trưng của tâm lý dân tộc. Nói cách khác, tính cách của một cộng đồng, một dân tộc thể hiện bản sắc dân tộc đó. Các đặc trưng bản sắc dân tộc thể hiện qua việc các thành viên của công đồng chia sẻ các đặc điểm chung về tính cách, lối ứng xử, cách nghĩ… Những đặc điểm này được các thành viên của cộng đồng, của nhóm dân tộc đó nhận thức đầy đủ, đồng nhất mình với những đặc điểm tính cách đó và thừa nhận, tuân theo nó. Ivan Pavlov coi bản sắc dân tộc là một dạng của hiện tượng tâm lý tổng quát, đó là những nét đặc thù, những nét nổi bật (dẫn theo V. Pronikov, I. Ladanov, 2004). Một trong những biểu hiện rõ nét nhất được nhiều nhà nghiên cứu nói đến là tự ý thức của cá nhân về việc anh ấy/chị ấy thuộc về một nhóm xã hội, một dân tộc. Chẳng hạn, một số tác giả cho rằng, bản sắc nhóm là một khái niệm đa chiều bao gồm tự nhận dạng bản thân, đánh giá, điểm nổi bật, tầm quan trọng, sự gắn bó cả trên tình cảm và hành động với nhóm của mình (Ashmore, Deaux, & McLaughlin-Volpe, 2004; Tajfel & Turner, 1986) (dẫn theo Kosic, M., và Dimitrova, R., 2017). Bản sắc dân tộc là sự chia sẻ về nguồn gốc, tổ tiên, lịch sử và văn hóa trong một nhóm dân tộc qua đó, cá nhân gắn bó với dân tộc mình cả trên tình cảm và nhận thức (Verkuyten, 2005) (dẫn theo Kosic, M., và Dimitrova, R., 2017). Trong nghiên cứu về tự phân loại bản thân (self-categorization) và sự phân biệt chủng tộc, Verkuyten (1998) đã sử dụng định nghĩa về bản sắc cá nhân và bản sắc xã hội như sau: Bản sắc cá nhân có thể được định nghĩa như tự mô tả bản thân dưới góc độ cá nhân hay các phẩm chất/thuộc tính về mặt tính cách và mặt sinh học; bản sắc xã hội đề cập đến sự tự định nghĩa bản thân dưới góc độ phân loại là thành viên của xã hội (Brown và Turner, 1998, p.38), (dẫn theo Verkuyten, 1998). Như vậy, ngầm ẩn sau tự ý thức về sự thuộc về một nhóm xã hội hay dân tộc nào đó là sự chấp nhận của cá nhân đối với hệ giá trị của nhóm, là cách thức ứng xử theo những chuẩn mực nhất định, là lối sống và những tính cách nhất định đặc trưng cho nhóm hay dân tộc mà cá nhân tự ý thức rằng họ là thành viên.

Như vậy, ở bình diện tâm lý học xã hội, tính cách được nghiên cứu dưới góc độ nhóm, cộng đồng, dân tộc. Ở bình diện này, tính cách của một dân tộc, một cộng đồng thể hiện ở sự chia sẻ các đặc điểm chung trong lối sống, ứng xử, tự ý thức về bản thân mình thuộc về một dân tộc, một nền văn hóa… Cũng như tính cách cá nhân, tính cách dưới góc độ cộng đồng, dân tộc cũng được hình thành trong những điều kiện nhất định về môi trường sống, phương thức hoạt động giao tiếp của nhóm, cộng đồng, dân tộc đó.

3. Những gợi ý trong tiếp cận và nghiên cứu tính cách con người

Từ những kết quả nghiên cứu nói trên, ta có thể rút ra một số nhận xét trong tiếp cận và nghiên cứu tính cách con người như sau:

- Tính cách dù được xem xét ở bình diện cá nhân hay xã hội đều được hình thành và phát triển, thể hiện thông qua hoạt động, các mối quan hệ xã hội. Tính cách con người của một vùng đất, một địa phương hay một dân tộc là sản phẩm kết tinh của phương thức sống của con người trên vùng đất đó. Tính cách gắn liền với các điều kiện, đặc điểm về địa lý, con người nơi họ được sinh ra và lớn lên. Chính vì vậy, nghiên cứu tính cách không thể tách rời các điều kiện địa lý, phương thức sống, nếp sinh hoạt hàng ngày của con người trên vùng đất đó.

- Tính cách là sản phẩm của văn hóa vùng miền, là tài sản chung để mỗi thành viên của cộng đồng đó tự ý thức, coi đó là giá trị để giữ gìn, phát huy dù có thể đang sinh sống ở môi trường văn hóa khác. Có thể nói, đây là đặc điểm bản sắc của một dân tộc, một địa phương, một cộng đồng người. Vì vậy, nghiên cứu tính cách con người không thể tách rời các giá trị văn hóa, bản sắc con người trên vùng đất đó. Cũng thông qua đặc điểm này, ta thấy được giá trị của con người, của vùng đất đó trong mối quan hệ với con người, nền văn hóa khác để phát huy, giữ gìn trong cuộc sống muôn màu hiện nay.

- Tính cách của một con người hay của một cá nhân luôn được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều với các hiện tượng tâm lý khác. Tính cách được hình thành và cũng bộc lộ thông qua hoạt động hàng ngày. Tính cách thể hiện bản sắc, giá trị chung của con người trên vùng đất đó, tính cách gắn liền với đặc điểm văn hóa của mảnh đất con người cụ thể và được cảm nhận một cách "rất khôn khéo". Chính vì vậy, nghiên cứu về tính cách của một địa phương, một cộng đồng hay một dân tộc đều phải đặt nó trong tổng hòa các đặc điểm về văn hóa, con người. Ví dụ nếu nói người Nghệ An hay người miền Trung chăm chỉ cần cù thì thực tế đó cũng là đặc điểm chung của người Việt Nam hay người Nhật Bản. Nếu nói người xứ Nghệ bộc trực thẳng thắn thì nhiều nghiên cứu về văn hóa con người Tây Nam bộ cũng cho kết quả tương tự.

- Trong điều kiện hiện nay, các vùng miền, các dân tộc, quốc gia luôn có sự giao thoa, đa dạng về mặt văn hóa. Chính vì vậy, việc phát huy bản sắc con người, tính cách con người trong bối cảnh giao thoa văn hóa đó là rất cần thiết để giữ gìn những tính cách thực sự là giá trị văn hóa đồng thời phát huy các phẩm chất đó trong cuộc sống. Chỉ trên cơ sở phát huy được giá trị bản sắc của con người trên mảnh đất cụ thể, họ mới có sự tự tin và sử dụng hết nguồn lực con người từ trí tuệ, năng lực, ý chí vượt khó đến niềm tin vào "địa linh nhân kiệt" của mảnh đất mình sinh ra để sống và làm việc một cách hiệu quả. Đó chính là nguồn nội lực mạnh mẽ của con người và khơi dậy được nguồn tài nguyên vô tận này là sức mạnh để phát triển một cách bền vững.

Tài liệu tham khảo

1. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học Dân tộc, NXB Từ điển Bách khoa.

2. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1989), Tâm lý học, NXB Giáo dục.

3. Kosic, M., & Dimitrova, R. (2017), Collective identity assets for psychological well-being in Slovene minority and Italian majority adolescents in Italy, Current issue in personality psychology, Vol.5(1), 53-63.

4. Mead, M. (1953), National character. In: Kroeber, A.L. Anthropology today: an encyclopedic inventory, Chicago, p. 651.

5. Phạm Xuân Nam (chủ biên, 2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam: mấy vấn đề cốt yếu, NXB Khoa học Xã hội.

6. Pronikov, V., và Ladanov, I. (2004), Người Nhật, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Stefanenko T.G. (2003), Tâm lý học dân tộc, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Lê Thị Minh Loan và Nguyễn Hữu Thụ dịch).

8 Nguyễn Quang Uẩn (2003), Tâm lý học Đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Verkuyten, M.(1998), Self-categorization and the explanation of ethnic discrimination, Journal of cummunity and a

Nguyễn Đình Chú

Phan Bội Châu vừa là một lãnh tụ cách mạng vĩ đại vừa là một nhà văn hóa siêu hạng của đất nước của quê hương Lam Hồng. Ở Cụ là một sự hòa quyện tuyệt đẹp hiếm có giữa con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ. Văn chương của Cụ là cả một kho báu đồ sộ về tư tưởng tình cảm cao cả, về lẽ yêu ghét đen trắng rạch ròi được chưng cất từ một chính nghĩa cảm lút trời. Trong đó, cống hiến lớn nhất cho đất nước giang sơn ở thời buổi nô lệ lầm than tăm tối, lòng dân ít nhiều đã nguội lạnh là dốc tâm thắp sáng lên một ngọn lửa rực hồng lý tưởng anh hùng bằng nhiều thể loại văn chương bao gồm cả văn xuôi và văn vần. Có cả nhân vật hư cấu.

Trong văn xuôi của Cụ hầu hết viết bằng chữ Hán đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng cũng có chỗ viết bằng Quốc ngữ, những nhân vật lịch sử của quê hương Lam Hồng hiện diện không theo trật tự lịch sử trước sau mà tùy theo nội dung từng tác phẩm. Nhưng ở đây để tiện cho việc theo dõi của bạn đọc, tôi sẽ trình bày theo thứ tự lịch sử trước sau. Và điều tôi muốn nói trước là tâm thế và phong cách viết chân dung nhân vật riêng của Cụ Phan. Tâm thế đó là một bầu nhiệt huyết sục sôi thể hiện bằng một giọng điệu đa thanh có chủ âm là tụng ca ngun ngút xen lẫn với bi ai não nuột từ tâm trạng một người đang cực độ xót xa cho vận nước vận dân. Do đó, tuy là văn xuôi tự sự nhưng ở đây vẫn nổi lên nhân vật trữ tình Phan Bội Châu nặng lòng với đất nước hiếm có trong văn học xưa nay. Cách viết thì không chỉ là chuyện liệt kê tiểu sử như thường gặp mà còn gắn với lời bình và lý giải hiện tượng về những cuộc đời và sự kiện của nhân vật. Từ đó tạo ra một nội dung phong phú về triết lý nhân sinh, về quan niệm anh hùng, về điều hay lẽ phải, về nguyên nhân thành công thất bại trong cuộc sống cần cho người đọc biết để rút kinh nghiệm vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trong lời bình lại liên hệ đối sánh với vĩ nhân của thế giới để mở rộng tầm mắt và năng lực nhận thức cho người đọc.

1Mai Hắc Đế: Chính tên là Mai Thúc Loan, quê Thiên Lộc, Thạch Hà, Hà Tĩnh, hiện diện trong Việt Nam quốc sử khảo viết năm 1909 và in ở Nhật Bản năm 1912 ở tiểu mục "Những vị anh hùng bậc nhất chống ngoại xâm mà thất bại". Tác giả cho biết: Sách sử đời Đường Trung Quốc đã chép như sau: "ở An Nam có Mai Hắc đế làm phản xưng đế, đem quân 33 châu, ngoài thì giao kết với Lâm Ấp, Chân Lạc, Kim Ngân, chiếm biển Nam, quân đông đến 40 vạn. Tư Húc xin mộ binh 10 vạn cùng với Sở Quan Khách theo đường của  Má Viện đánh vào một cách bất ngờ. Thúc Loan hoảng sợ không kịp trù mưu nên đại bại".  Tác giả bình: thất bại là do chưa huy động được nhân dân dù lòng dân đã nguội lạnh trước họa xâm lăng. Tác giả so sánh Mai Hắc Đế với Victoria và Napoléon của Pháp với cả hai Bà Trưng của nước nhà đã thắng lợi là nhờ được lòng dân hưởng ứng để rút ra chân lý: Dân thì có thế này thế khác nhưng muốn thắng lợi nhất định phải có sự đồng tình hưởng ứng của dân.

2Đặng Tất (Hà Tĩnh), và Nguyễn Cảnh Chân (Nghệ An): Cũng Việt Nam quốc sử khảo cho biết: Giặc Minh xâm chiếm nước ta. Chúng yết bảng tìm con cháu nhà Trần. Đặng Tất biết tin, giết quan giặc Minh và đem quân đón rước Quỹ (Trần Quỹ), con thứ Nghệ Tông vào Hóa Châu (Nghệ An) tôn làm vua là Giản Định đế để chống giặc. Đại quân của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chiến thắng giặc, giải phóng được từ Thuận Hóa ra tới Thanh Hóa và trên đà tiến ra giải phóng Đông Đô được nhân dân hưởng ứng rầm rộ nhưng đến Tràng An (Ninh Bình) thì gặp quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bồ Cô. Nghĩa quân chém tướng giặc là Lữ Nghi. Mộc Thạnh trốn thoát về Đông Quan sau đó lại từ Đông Quan đem quân trở lại tấn công. Nghĩa quân Đặng Tất đại bại. Cơ nghiệp nhà Trần sắp được khôi phục mà hỏng. Đã thế, năm sau Nguyễn Mộng Trang lại xúc xiểm với nhà vua là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân độc quyền trong thưởng phạt cần sớm trừ khử. Giản Định Đế nghe theo giết chết hai ông. Con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị uất ức, bèn đem quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa rước cháu Nghệ Tông là Trần Quí Khoáng về Nghệ An tôn làm vua lấy niên hiệu là Trùng Quang tiếp tục chống giặc. Nhưng bị quân Minh do Trương Phụ chỉ huy tấn công. Vua phải chạy vào Thuận Hóa. Nguyễn Súy và Đặng Dung (con Đặng Tất) đánh trả nhưng thất bại. Cả vua và Súy Dung bị bắt giải về Bắc Kinh. Dọc đường vua nhảy xuống sông tự vẫn. Súy Dung cũng bị chết. Tác giả cho Đặng Tất ít học nên không đủ mưu kế đối phó với giặc. Chê Giản Định đế đang chống giặc mà nghe lời xúc xiểm giết người có công. Riêng với vua Trùng Quang và hai tướng Súy Dung thì tác giả lấy lại lời tôn vinh của vua Tự Đức: "Vua tôi chết vì xã tắc. Thật làm sáng chói ngàn đời vậy".

3Nguyễn Xí: Quê Thượng Xá, Nghi Lộc, Nghệ An được thời nay mệnh danh là "Người hai lần khai quốc" dựa theo Sắc phong thần của vua Lê Thánh Tông từng ghi công: "Bình Ngô khai quốc tịnh nạn trung hưng". Trong tiểu thuyết Trùng Quang Tâm sử (có lúc ghi là Hậu Trần dật sử) viết và in ở Trung Hoa năm 1922. Nội dung là lịch sử chống giặc Minh của vua Trần Quí Khoáng niên hiệu Trùng Quang trên đất Nghệ An thời hậu Trần. Tác phẩm có 50 nhân vật anh hùng từ đủ tầng lớp, có quan cũ có dân thường, có nam có nữ, có nhân vật lịch sử, có nhân vật hư cấu. Riêng về nhân vật Nguyễn Xí thì do tác giả dùng bút pháp phi sử của tiểu thuyết lịch sử hiện đại mà có mặt ở đây trong khi Nguyễn Xí là người của Lam Sơn khởi nghĩa sau đó. Tác giả đã xây dựng nhân vật ông Xí là con nông dân nghèo, từ bé đã rất căm giận giặc xâm lăng và nói với cha "con thề sẽ giết hết giặc Ngô". Sau là Tư lệnh nghĩa quân Trùng Quang có mặt từ đầu đến cuối tác phẩm. Nghĩa quân Trùng Quang cuối cùng thất bại. Lời kết của tác phẩm: "Vĩ đại thiệt!!! Xã hội đúc nên anh hùng. Sinh hùng tạo nên thời thế. Vì nhân mà được quả. Rồi do quả lại sinh ra nhân. Chúng ta đọc sử đến đoạn vua Lê dẹp giặc Ngô lấy lại nước Việt ai không đáng được ngợi ca. Dân ta ơi! Đồng bào ta ơi! Dậy! Dậy! Dậy!".

4. Nguyễn Du (Hà Tĩnh): Có mặt ở bài Về chú ý câu Kiều đăng Báo Trung Lập năm 1931. Nội dung trả lời nhà báo Yên Sơn phỏng vấn tác giả về chuyện năm 1924 chủ bút Nam Phong phát động phong trào sùng bái Truyện Kiều mà bị chí sĩ Ngô Đức Kế về sau (1930) là chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng lên án về tội lôi kéo thanh niên vào tháp ngà văn chương mà quên nghĩa vụ cứu nước. Phan Bội Châu vẫn yêu quí Nguyễn Du và Truyện Kiều, kể cả với chủ bút Phạm Quỳnh vẫn thừa nhận là người có hiểu biết, thậm chí còn hơn mình nhưng Cụ không đồng tình với phong trào sùng bái Truyện Kiều ở chỗ đáng ra phải say sưa với lý tưởng anh hùng ở nhân vật Từ Hải thì lại say sưa với chuyện tình ái Kiều - Kim. Cụ cũng đồng ý dựng tượng Nguyễn Du nhưng trước hết hãy dựng tượng Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng..

 5Đinh Văn Chất: Quê Nghi Lộc, Nghệ An có mặt trong Việt Nam vong quốc sử ở chương thứ hai Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước. Viết và in năm 1905 ngay khi tác giả mới đặt chân trên đất Nhật Bản do Lương Khải Siêu khuyến khích viết. Nội dung như sau: "Người Nghệ An ứng chiếu khởi nghĩa. Quân thua bị bắt. Người Pháp bêu cả thây. Thây rữa ra. Học trò xin đem về chôn. Người Pháp chỉ cho thây. Còn đầu bị chặt lấy đem đốt. Hành vi của một cường quốc văn minh vốn là như thế đấy… Hai con trai, hai cháu gọi bằng bác, một con gái tuổi còn nhỏ đều bị Pháp giết. Nước văn minh vẫn thích giết như thế chăng. Ông Đinh trước xuất thân tiến sĩ, làm quan ở phủ Nghĩa Hưng rất được lòng quân dân, đánh nhau với quân Pháp thường thắng luôn. Pháp hạ được thành Nam Định nhưng không hạ được phủ Nghĩa Hưng. Nên Chất bị hình phạt thảm khốc như thế. Tôi ngờ là ai hết lòng yêu nước thì phạm vào cái hình luật nặng nhất của châu Âu chăng?".

6. Phan Đình Phùng: Quê Đức Thọ, Hà Tĩnh được nói đến nhiều chỗ nhưng rõ nhất là ở sách Việt Nam vong quốc sử, chương thứ hai: Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước. Vốn là một thư sinh vượt khuôn khổ trường thi mà đậu đầu Đình thí, được bổ làm Ngự sử thì phải đương đầu với bọn quan lại bất chính. Vua Hàm Nghi xuất bôn ra Hà Tĩnh phát Hịch Cần vương, Phan đang cự tang mẹ vẫn chít khăn tang hưởng ứng Cần vương. Nhờ có Cao Thắng dũng khí, Cao Nguyễn Chanh mưu lược giỏi góp sức, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng nên lập nhiều chiến công. Hoàng Cao Khải, người cùng làng tay sai của giặc dụ dỗ đầu hàng thì đáp lại bằng những lời đanh thép. Giặc đào mộ tổ tiên lên nhưng vẫn không khuất phục. Giặc dùng Nguyễn Thân quê Quảng Ngãi đàn áp giữa lúc Cụ đã lâm bệnh và qua đời. Cao Thắng, Nguyễn Chanh cũng không còn. Phong trào Cần vương của Phan Đình Phùng thất bại. Nguyễn Thân treo giải thưởng cho những ai biết nơi chôn cất cụ Phan. Được một tên Mọi chỉ chỗ. Chúng cho đào xác lên tẩm dầu đốt xác, dùng súng bắn tro xuống sông. Tác giả bình: văn mình Pháp mà lại xử sự với lãnh tụ Cần vương một cách dã man chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

7. Cao Thắng: Quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, có mặt trong tác phẩm Sùng bái giai nhân ở mục Truyện tráng sĩ Cao Thắng, viết in ở Nhật Bản năm 1907. Ông từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đỗ Như Mai năm 1874. Sau đó trong khi Phan Đình Phùng có ý định cầu viện nhà Thanh để chống Pháp thì đã mời cụ trở lại lãnh đạo phong trào Cần vương. Ông chiêu mộ nghĩa binh số đông là lục lâm hảo hán. Rất có tài thao lược. Nhiều lần dùng nghi binh cướp được lương thực và súng đạn của giặc. Tự đúc lấy súng ống chẳng thua gì súng ống của giặc. Giặc Pháp phải kinh hoàng, mệnh danh ông là "con hổ Thắng" (seigneur tigre). Lãnh tụ Phan Đình Phùng và Cao Thắng không còn, phong trào Cần vương này thất bại. Với tác giả Cao Thắng là vị tướng tài ba nhất trong phong trào khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, nếu đất nước có một trăm Cao Thắng thì thế nào giặc Pháp cũng phải cút. Cao Thắng so với một số anh hùng của thế giới thì chẳng thua ai.

8. Lê Bảo: Quê Nam Đàn, Nghệ An, có mặt trong Sùng bái giai nhân ở mục Tiểu truyện Lê Mao thuộc phần Phụ chép. Lê Bảo từ bé đã tỏ ra thông minh, khoáng đạt, không chịu ràng buộc, thích Lỗ Trí Thâm của Thủy Hử, Trương Phi của Tam quốc chí diễn nghĩa. Theo đạo Thiên chúa rồi gia nhập nghĩa quân của Cao Thắng. Lập mưu đánh cướp và giết Chủ sở Thương chính Nghệ An tại Vinh. Trong khi lập mưu bắt sống Đội Phiến để trả thù cho Cao Thắng, hai bên bắn nhau, Phiến chết, Lê Bảo hy sinh. Tác giả nói mình viết truyện này là bằng máu và muốn viết được hàng ngàn tráng sĩ nữa. Tác giả cảnh cáo những kẻ theo giặc hại nước phê phán những người đang chạy theo lối sống nói là văn minh nhưng thực chất là "văn minh da" chứ không phai "văn minh tủy". Phải biết phân biệt.

9. Bùi Chính Lộ: chính tên là Lê Mai, quê Thanh Thủy Nam Đàn Nghệ An có mặt trong truyện Tái sinh sinh - Truyện nhà cách mạng Bùi Chính Lộ viết năm 1917. Bùi Chính Lộ tham gia phong trào cách mạng do Phan Bội Châu lãnh đạo. Bị giặc Pháp bắt. Ông lập kế chết giả nhưng chôn thật rồi nhờ đồng chí đào lên và tiếp tục Đông du tham gia Quang phục hội. Bị giặc Pháp bắt lại, ông cắn lưỡi tự sát. Từ cuộc đời Bùi Chính Lộ, tác giả bàn luận về khái niệm phi thường với không biết bao nhiêu trạng thái trong cuộc sống, có phi thường cao cả, có phi thường bỉ ổi. Nói đến ba hạng người yểm thế xu thế cứu thế với tinh thần đề cao cứu thế. Bùi Chính Lộ là một tấm gương sáng chói của người cứu thế phi thường cao cả.

10. Đặng Thái Thân: Quê Nghi Lộc, Nghệ An là học trò xuất sắc của Phan Bội Châu cả về văn chương học vấn và chí khí cao cường. Phan Bội Châu Đông du muốn đưa ông đi theo. Ông xin ở lại trong nước để xây dựng phong trào. Từng vào Nam ra Bắc chiêu tập đồng chí. Là người cùng chú ruột là Đặng Tử Kinh đưa Hội chủ Cường Để sang Nhật. Là người gắn bó với cả hai phái cách mạng minh xã ấm xã. Năm 1910 bị giặc Pháp đưa 500 lính tập vây bắt ở Phan Thôn gần thành Vinh. Ông nhảy lên mái nhà để thoát nhưng không thể thoát, bèn dùng súng lục bắn trả giặc Pháp không ngờ lại bắn đúng hai lính Việt. Ông nói: Ta không muốn người Việt bắn người Việt mà nay lại là thế. Xong quay lại nổ đạn vào mình. Cái chết của ông trở thành lừng danh lịch sử. Các chí sĩ ở ngục Côn Đảo được tin đã mở một đợt sáng tác thơ ca ngợi ca.

11, 12. Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường: Cùng quê Nghi Lộc, Nghệ An được viết chung ở Việt Nam nghĩa liệt sử do Đặng Đoàn Bằng biên soạn, Phan Thị Hán (Phan Bội Châu) tu chỉnh viết và in năm 1917 tại Trung Quốc, ở mục Chép chung chuyện Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường. Về sau trong Phan Bội Châu niên biểu cũng viết chung hai ông bởi đây là một cặp bài trùng cùng quê, cùng Đông du, cùng tham gia sáng lập Việt Nam quang phục hội, cùng có kế hoạch đưa lực lượng theo hai hướng khác nhau về nước lập căn cứ địa chống Pháp cùng bị bắt, cùng bị giam ở Hỏa Lò Hà Nội, cùng hiên ngang ra pháp trường, cùng bị bắn, chôn chung một mộ và trước mười họng súng của quân thù cùng để lại câu đối tuyệt mệnh được hậu thế cho là tiếng nói cao cả nhất trong văn chương yêu nước của loài người. Nguyễn Đức Công (Hoàng Trọng Mậu) được sách mệnh danh là Kỳ nam tử. Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) là con của bậc đại sư biểu Nguyễn Thức Tự, thầy học của Phan Bội Châu.

13. Nguyễn Quỳnh Lâm: Quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 1906 nhân dịp cụ Phan về nước, ông theo Cụ sang Nhật học ở ĐồngVăn thư viện. Gặp khó khăn về kinh tế, ông sang Xiêm rồi về Hà Tĩnh chiêu mộ nghĩa binh chống Pháp. Bị truy lùng, ông lại sang Trung Quốc rồi tham gia quân đội cách mạng của Trung Quốc và hy sinh năm 22 tuổi. Với tác giả, ông là người thất bại nhưng cái chí thì chẳng thua gì Galybandich, một anh hùng của Ý Đại Lợi nổi tiếng thế giới.

14. Lê Cầu Tinh: Quê Nghi Lộc, Nghệ An Đông du học tại Đồng Văn thư viện, được một năm thì không có tiền ăn học, đành sang Hương Cảng sau đó theo cụ Phan sang Xiêm. Thuở nhỏ đã tự chế tạo súng. Thấy súng Nhật rất tốt thì tìm cách chế tạo súng cho bằng súng Nhật. Thời ở Nhật vì rét quá mà ốm đau. Sang Xiêm bệnh tái phát lại có dịch nên qua đời. Có để lại di chúc cho các đồng chí.

15. Lê Khánh: Quê Nghi Lộc, Nghệ An rất thông minh học giỏi. Đã học trường Điện học và Chủng viện để thành cha cố giảng đạo. Nhưng rồi bỏ Đạo để cứu nước bằng cách cổ động một số giáo sĩ trong đó có Mai Lão Bảng. Đông du bị giặc Pháp kết án. Năm 1910, Ngư Hải bị giặc Pháp vây bắt, ông tìm cách cứu. Nhưng Ngư Hải đã phải tự xả súng vào mình để quyên sinh. Tác giả viết: "Thiệt là người trỗi của nước ta. Cũng là kiểu mẫu của tôn giáo".

16. Cù Sĩ Lương: Quê Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An thuộc dòng dõi Nho gia, tính tình khảng khái, ghét bất công, sẵn sàng giúp đỡ người gặp nạn. Từng là ông đồ dạy chứ Hán. Nhưng rồi giác ngộ, chán văn chương bát cổ, tham gia đảng cách mạng bạo động có nhiều đóng góp. Bị giặc Pháp bắt đày vào Hà Tiên và chết ở đây năm 37 tuổi. Viết về Cù Sĩ Lương cũng là dịp tác giả phê phán hạng người hủ nho chỉ biết ôm lấy văn chương bát cổ lỗi thời mà quên nghĩa vụ cứu nước.

17. Lê Văn Miến: Quê Nghi Long, Nghi Lộc, Nghệ An là một trong mấy người Việt Nam đầu tiên du học Pháp. Học xong không màng chốn quan trường nên chuyển sang học hội họa và trở thành vị thủy tổ về tranh sơn dầu Việt Nam. Về nước dạy học và được cử làm Tế tửu (Hiệu trưởng) Trường Quốc Tử giám ở Huế. Từng là thầy giáo của Nguyễn Tất Thành. Bức thư ngắn gọn của Phan Bội Châu gửi Lê Văn Miến viết xong tác phẩm Hiến pháp của nước Việt Nam muốn được Lê Văn Miến là người đầu tiên học vấn uyên thâm đọc và cho ý kiến. Lê Văn Miến đáp lại là đã đọc ngay và cho rằng nên bỏ hết vì hoàn cảnh đất nước nô lệ thế này thì làm gì có Hiến pháp. Trong thư hai bên đều gọi nhau là Tiên sinh. Chuyện này xẩy ra vào khoảng 1929 - 1930 tại Huế.

18. Phạm Hồng Thái: Quê Hưng Nguyên, Nghệ An được Phan Bội Châu viết riêng thành Truyện Phạm Hồng Thái in ở Trung Quốc năm 1925. Phạm quân xuất thân Nho gia, rất thông minh, mới mười tuổi đã  căm giận giặc Pháp xâm lược nên cưỡng lại ý muốn của gia đình, bỏ học khoa cử để học Trường Pháp Việt, rồi lại chán ghét nền giáo dục của thực dân. Được Nguyễn Quân (Nguyễn Ái Quốc) giác ngộ cách mạng theo đường lối giai cấp dựa vào công nông, nên vào làm việc ở nhà máy để giác ngộ công nhân, khuyến khích họ biểu tình trong khi cái chí giết giặc vẫn không nguôi. Năm 1924, nhân dịp Toàn quyền Đông Dương Méc Lanh công cán sang Trung Quốc, ông đã sang Trung Quốc liên hệ với Đảng cách mạng của Trung Quốc để mưu việc ném bom giết Meclanh ở Sa điện. Chuyện không thành, bị vây bắt, Phạm Quân đành nhảy xuống sông tự vẫn, gây chấn động dư luận trong nước và ngoài nước. Tôi nói thêm hiện ở Trung Quốc tại Đông Hưng giáp Móng Cái, Quảng Ninh có mộ Phạm Hồng Thái được nhiều người đến tưởng niệm.

19. Hồ Tùng Mậu: Quê Quỳnh Lưu, Nghệ An, một nhà cách mạng nổi tiếng đức độ, từng nhiều năm hoạt động ở Trung Quốc, có quan hệ thân tình với cụ Phan. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 dự cương vị lớn của đất nước. Cụ qua đời, Hồ Chủ tịch có bài ai điếu rất cảm động. Và đây là bức thư cụ Phan gửi Hồ Tùng Mậu, xưng là bác và cháu. Thư nhờ Hồ Tùng Mậu chuyển cho Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) về việc lập đoàn Thanh niên mà theo ý cụ Phan là "lấy làm phải lắm. Nếu như có chỗ nào giúp được thì bác cũng hết sức. Nhưng có hai câu ngạn ngữ bên Tây rằng: 1) Chẳng thà rằng thiếu chứ không nên làm quá. 2) Không trọn vẹn thì thà không có".

20. Nguyễn Ái Quốc: Thật là đặc biệt, có một không hai ở đất nước ta. Ở thế kỷ XX trên đất Lam Hồng địa linh nhân kiệt đã xuất hiện Phan Bội Châu tiếp theo là Nguyễn Ái Quốc, cùng quê Nam Đàn đều là lãnh tụ vĩ đại của đất nước đã có cuộc chuyển giao tuyệt diệu về đường lối cách mạng cứu nước để từ thất bại đến thành công rực rỡ. Đương thời ở quê hương vẫn lưu hành rộng rãi câu sấm của Trạng Trình: "Đụn Sơn phân giải, Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh" (núi Đụn như tách hai do có khe nước chảy ồ ồ xuống sông Lam như bò đái/ Khe Bò Đái cạn nước hết chảy nên không còn tiếng ồ ồ đó nữa thì Nam Đàn có Thánh xuất hiện). Nhiều người vẫn cho rằng Thánh đây là Phan Bội Châu. Theo học giả Đào Duy Anh từng sống ở Huế gần gũi cụ Phan thì nhân dịp có người ở quê vào Huế thăm Cụ đã đưa chuyện đó ra nói thì Cụ nói: tôi không phải là Thánh của Nam Đàn. Thánh của Nam Đàn là Nguyễn Ái Quốc. Chuyện truyền ngôn là thế. Còn trong văn bản thì ngoài những gì có về Nguyễn Quân được nói ở Truyện Phạm Hồng Thái (mà nhà chuyên gia về Phan Bội Châu là Chương Thâu cho rằng cụ Phan lầm), còn có Thư gửi Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) viết ngày 13 tháng 3 năm 1925 đáp lại thư Lý Thụy gửi cho Cụ trong đó nói: "Nhớ lại khi trước, tôi đến nhà cháu uống rượu ngâm thơ. Lúc bấy giờ tôi cũng không ngờ rằng sau 20 năm cháu giỏi đến thế này. Bây giờ tôi bì với cháu thì xấu hổ nhiều lắm".

 

Linh Nhi

Ẩm thực không chỉ phản ánh tính cách, tình nghĩa, lối sống, triết lý nhân sinh, trình độ văn hóa của chủ thể ẩm thực mà còn mang đậm bản sắc và tạo nên sắc thái riêng biệt từng địa phương, từng dân tộc. Ẩm thực Việt Nam là cách gọi chung của phương thức chế biến món ăn, chế biến gia vị những thói quen ăn uống trên đất Việt Nam, nó là món ăn thức uống, cách thức ăn uống, phong tục ăn uống đặc trưng của từng địa phương từng dân tộc truyền lại, nó mang bản sắc văn hóa của người Việt Nam từ bao đời nay.

Xứ Nghệ từ lâu đã nổi tiếng là vùng đất đầy khắc nghiệt, vì vậy con người ở đây đã sớm tạo cho mình bản lĩnh và tính cách riêng. Trong văn hóa ẩm thực cũng có những đặc trưng riêng mang đậm phong cách của con người xứ Nghệ. Nếu như người Hà Thành hào hoa nổi tiếng sành ăn với các món ngon đặc sản thì người miền Trung chất phác, cần cù lại nổi tiếng bởi chính những món ăn dân dã hàng ngày. Đó là đĩa mắm, chén cà, là dưa muối, nhút muối, rau vác... Những món ăn bắt nguồn từ các loại rau, củ, vật phẩm hết sức bình thường, nơi nào cũng có nhưng ở xứ Nghệ lại nổi lên như một đặc trưng, để rồi ai đã từng đến đây, gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây đều cảm nhận được những đặc sắc của nó.

Ai về ăn nhút Thanh Chương

Dừng chân nếm thử vị tương Nam Đàn

Không hoa văn, màu mè, cầu kỳ trong chế biến, các món ăn ở xứ chân chất như chính những người dân cần cù, lam lũ nơi đây, để rồi đi vào thơ ca khiến ai đã từng thưởng thức không thể nào quên. Và trong cách chế biến phần nào đã thể hiện rõ đặc trưng miền đất và con người xứ Nghệ mộc mạc, bình dân trong ăn uống. Những món nổi tiếng nhất ở xứ Nghệ lại là những món bình dị nhất như nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, lươn xứ  Nghệ,… những món ăn mang cả hồn cốt của con người xứ Nghệ.

Nhút thực ra là món dưa muối chua mà vật liệu chính là mít non và xơ mít, những thứ tưởng như không ăn được nhưng người Nghệ An đã biết tận dụng và chế biến nó thành một món ăn thay rau chấm với tương tự làm rất thú vị mà chỉ riêng xứ Nghệ mới có.

Ở Nghệ An có nhiều làng quê làm nhút, nhưng ngon nổi tiếng hơn cả là "nhút Thanh Chương". Nhút có nhiều loại như nhút thập cẩm gồm rau cải, măng, hoa chuối và nhút mít, trong đó, làm phổ biến nhất là nhút mít. Về Thanh Chương ngoài đặc sản "nước chè xanh Thanh Thủy" còn có mít. Ngày xưa mít được trồng hầu hết trong vườn các gia đình. Mít là loại cây chịu hạn tốt, sinh trưởng chủ yếu trên vùng đất đồi núi. Ngoài lấy quả, mít còn được trồng để lấy gỗ. Vào mùa mít chín, ngoài dùng múi và hạt để ăn, bà con nơi đây đã có sự sáng tạo trong việc tận dụng xơ mít để làm nhút.

Nếu đã từng nghe kể về "Sự tích Nhút", sẽ càng yêu, càng thương hơn vùng quê xứ Nghệ. Ngày trước, miền quê nghèo gió Lào cát trắng, cỗi cằn đá sỏi Thanh Chương cơm gạo nhà nào ăn cũng không đủ no, phải độn ngô, độn sắn mà vẫn thiếu, vẫn đói. Thế là người dân đã luộc mít - thứ quả nhà nào cũng sẵn có, chấm với Chẻo - một thức chấm rất độc đáo của người Nghệ, để ăn thay cơm.

Nhưng mít chỉ có duy nhất một mùa trong năm, vì thế họ nghĩ đến việc muối mặn ăn dần quanh năm. Món Nhút đã được hình thành, sống với con dân quê từ thuở đói nghèo như thế cho đến tận hôm nay, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có thức ăn nào thay thế nổi… Vì thế, người dân Thanh Chương vẫn thường truyền nhau câu hát thân thương: "Ngái ngôi chi mà anh nỏ về/ Hay là vì anh chê quê em nghèo đói/ Hay anh chê em vụng về câu nói/ Đất Thanh Chương nhút mặn chua cà/ Chắc có lẽ rứa mà anh chê/ Chắc có lẽ rứa mà anh nỏ về….". Xứ Nghệ đậm đà và mặn mà vì tình nghĩa, và phải chăng vì Nhút nữa!

Thực ra, món nhút ra đời cũng bắt nguồn từ cuộc sống vất vả, khó khăn của người dân nơi đây. Với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây không đầy đủ sung túc. Cái ăn cái mặc luôn là vấn đề toan tính hằng ngày. Trong điều kiện như vậy, người dân đã hình thành nên những tính cách đặc trưng, họ chịu khó chịu khổ bền bỉ trong lao động sản xuất, cần cù và tiết kiệm trong sinh hoạt, anh dũng trong chiến đấu, nhân hậu trong đối xử với mọi người. Cộng thêm với bản tính siêng năng, chịu khó, chắt chiu, tiết kiệm của người Nghệ "ăn khi lành để dành khi ốm", người Nghệ đã biết tận dụng nguồn lương thực, thực phẩm rau, củ, quả dồi dào của mùa vụ chế biến thành những món ăn để dùng ăn dần và trở thành món ăn đặc sản. Nhút là món ăn xuất phát từ đó.

Để muối nhút, trước hết dùng quả mít xanh, đặc biệt loại "mít ương" tức là mít già, gần chín làm nhút càng ngon. Mít được hái xuống từ trên cây, đem gọt sạch vỏ ngoài, rửa cho hết nhựa rồi bỏ vào nong hoặc nia, dùng dao băm, thái nhỏ thành sợi, sau đó, đem phơi nắng vài ba tiếng đồng hồ cho nhút héo thì cho muối, thính ngô vào, dùng tay trộn đều cho mềm ra. Cuối cùng bỏ vào vại sành, đặt vỉ vào, dằn đá cho nén xuống, đổ nước muối loãng vào cho ngập vỉ, đậy nắp che bụi và ủ kín.

Nhút thường muối khoảng một tuần là ăn được. Khi lấy nhút ra, ta sẽ thấy màu trắng vàng của nhút hòa lẫn với màu vàng của thính ngô, màu trắng của nước, muối và mùi thơm của nhút tạo nên nét đặc trưng riêng của món ăn. Nhút thường được người dân dùng để ăn bằng cách dùng tay lấy nhút, vắt hết nước, cho vào đĩa chấm với nước tương, nước chẻo, hay nước mắm pha ớt, tỏi kèm rau thơm trong đó không thể thiếu lá tía tô và kinh giới; ăn nộm với các gia vị như vừng, lạc rang lên giã nhỏ trộn với lá chanh thái chỉ và một số loại rau thơm như lộc quế, húng quế, tía tô, kinh giới, rau ngổ, đinh lăng thái nhỏ và thêm hoa bắp chuối rừng thái mảnh trộn vào càng ngon… hoặc nấu dấm, nấu canh chua với lạc giã nhỏ, cá lóc, có thêm các gia vị như ớt, mùi tàu.v.v.

Món nhút Thanh Chương dù rất giản dị, chân phương bởi được nấu từ những sản vật gần gũi nhưng trở thành nét văn hoá đặc trưng cho vùng đất này, thành niềm nhớ, niềm thương của những người con xứ Nghệ khi xa quê. Và nhút Thanh Chương cũng để lại ấn tượng khó phai của người khách có dịp ghé qua miền Nghệ An nắng gió mà khi trở lại phải tìm ăn cho bằng được. Sau cùng bữa ăn, người ta sẽ dùng một bát nước chè xanh nóng để tráng miệng. Bát chè tươi khéo hãm, màu nước trong xanh, đậm đà mà không quá chát, mùa đông có thể thêm vài lát gừng cho ấm bụng, cũng là một nét đáng yêu vẫn hay được nhắc đến trong những đồ ăn, uống của người xứ Nghệ, giản dị như vậy thôi nhưng mang bản sắc của một vùng quê nổi tiếng. Người xa quê mỗi lần mường tượng lại những tháng ngày thơ bé hẳn không thể quên được hình ảnh một chiếc chõng tre, ấm chè xanh nóng hổi, bà con chòm xóm sau một ngày lao động mệt nhọc quây quần bên nhau nói chuyện tỉ tê. Một nét đẹp dung dị nhưng có lẽ đã trở thành văn hóa làng quê Nghệ.

Tìm hiểu về ẩm thực xứ Nghệ là về với cội nguồn xa xưa với nét bình dị, với những món ăn hết sức quen thuộc đó là nét đặc trưng ở vùng quê này. Những món ăn ấy thể hiện cuộc sống thanh bình gần gũi với tự nhiên của người xứ Nghệ. Đó cũng chính là tính cách cần cù chịu gian khổ để vươn lên trên cuộc sống còn nhiều khó khăn. Ngày nay, ẩm thực Nghệ đã trở nên đa màu sắc, bên cạnh những món ăn đạm bạc dân dã được điểm tô bởi nhiều thức quà và đặc sản khác. Đối với nhân dân xứ Nghệ nói chung và người Nghệ An nói riêng việc giữ gìn và phát huy văn hóa ẩm thực quê nhà chính là tình yêu và lòng tự hào quê hương, về các truyền thống tốt đẹp củ

"Đại hội tỉnh Đảng bộ Nghệ An khóa XIX diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, do đó, có sứ mệnh đặc biệt"

 

LTSĐại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX dự kiến tổ chức vào tháng 11 năm 2020, đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của tỉnh. Từ nay đến khi Đại hội diễn ra Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ XVIII tổ chức lấy ý kiến góp ý của các nhà khoa học, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước là người Nghệ An nhằm xây dựng Dự thảo Báo cáo Chính trị.

Để góp thêm ý kiến vào Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Chuyên san KHXH&NV Nghệ An có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Đình Thiên - thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Tổ phó Tổ tư vấn kinh tế - xã hội của tỉnh một số nội dung trong bản Dự thảo Báo cáo.

*   *   *

Phóng viênXin chào PGS.TS Trần Đình Thiên, năm 2020 là năm diễn ra Đại hội Đảng các cấp, trong bối cảnh Thế giới rất đặc biệt tác động đến toàn cầu, PGS.TS có thể khái quát những vấn đề đặc biệt của thế giới và tác động của nó đến quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Chưa bao giờ thế giới ở vào tình thế, bối cảnh phát triển đặc biệt như hiện nay với hàng loạt biến cố lịch sử to lớn và những xu hướng chuyển biến có giá trị xoay chuyển thời đại. Đó là: Cách mạng Công nghiệp 4.0, chuyển loài người sang một thời đại công nghệ hoàn toàn mới; Quỹ đạo Toàn cầu hóa với những xu hướng mới và khác - sự trỗi dậy mạnh mẽ chưa từng thấy của các nước lớn đi sau; sự phục hồi chủ nghĩa dân tộc, xung đột và chiến tranh trên nhiều phương diện; Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh khốc liệt, diễn ra trong không gian toàn cầu hóa và công nghệ cao, mang tính toàn cầu, diễn biến bất thường, khó lường, gây tác động tiêu cực to lớn chưa từng thấy.

Bối cảnh này đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, nhiều bất thường và khó dự đoán. Nó làm thay đổi hoàn toàn các điều kiện nền tảng, nguyên lý vận động và giải pháp phát triển của loài người. Cả thế giới, từng quốc gia, từng địa phương và mỗi cá nhân phải xác lập tầm nhìn và cách tiếp cận phát triển mới; phải có chiến lược sinh tồn và phát triển thích ứng với điều kiện mới.

Tuy nhiên bên cạnh thách thức chưa từng thấy, bối cảnh thế giới hiện nay cũng tạo nên những cơ hội hiếm có để phát triển, đặc biệt là đối với các nước đi sau tiến vượt lên. Việt Nam là nước đi sau, Nghệ An là tỉnh mới chưa phát triển, nhưng với 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) đã được ký kết, trong đó có 2 Hiệp định hế hệ mới là CPTPP và EVFTA, Việt Nam có nền kinh tế với độ mở cửa thuộc loại sâu rộng nhất thế giới. Đang đứng ở "trung tâm hội nhập" của thế giới, Việt Nam sẽ là tọa độ có nhiều cơ hội lớn hiếm có nhưng cũng sẽ phải chịu nhiều sóng gió và va đập nhất từ các xu thế thời đại.

Đó chính là lý do khách quan để Việt Nam, Nghệ An cần nhận diện lại thời đại, tư duy lại cách tiếp cận phát triển, xác lập tầm nhìn mới, xây dựng chiến lược phát triển với tầm - thế và đích mới. Sứ mệnh đó cũng được đặt ra cho Đại hội Đảng lần này ở các cấp, đồng thời giao phó cho Đại hội Đảng lần này trọng trách mới.

Đó là sau 35 năm đổi mới thành công, sau 10 năm tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, đất nước đứng trước nhu cầu đổi mới căn bản, cấp bách. Hiện nay, nguy cơ tụt hậu phát triển của nước ta so với thế giới vẫn chưa được giải quyết, thậm chí có nhiều mặt còn trầm trọng và gay gắt hơn.

Đại hội lần này, cả cấp Toàn quốc lẫn cấp Tỉnh, có sứ mệnh nhận diện đúng bối cảnh và tác động; xác lập tầm nhìn phát triển mới, xác định đường lối và các quyết sách chiến lược lớn giúp đất nước và Nghệ An tiến vượt, thu hẹp nhanh khoảng cách tụt hậu phát triển, trở nên tự cường, dân chủ và thịnh vượng.

Nghệ An là địa phương mà nền tảng phát triển có hai yếu tố nhận diện đặc trưng. Một là, tính đặc sắc và sự khác biệt (nền tảng: tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa - lịch sử - con người, lợi thế - vị thế, cơ cấu ngành lựa chọn). Hai là, độ mở cửa, liên kết và hội nhập phát triển (định hướng phương thức phát triển: liên kết vùng và liên kết quốc tế hiện đại).

Nghệ An là địa phương được Bộ Chính trị "đặc biệt" định vị phát triển bằng một Nghị quyết  riêng (NQ-26 Bộ Chính trị). Bám sát định vị này, phải coi đây là trục chính để tổng kết đánh giá và lựa chọn quyết sách cho phát triển của Tỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt và khác thường của tình hình thế giới và bối cảnh phát triển, cách tiếp cận tổng kết và xác định đường lối tương lai của Tỉnh phải vượt tầm, không nên và không thể chỉ bó hẹp trong khoảng thời gian chỉ 5 năm. Cách nhìn nhận vấn đề, các ý tưởng phát triển nên được mở rộng, xuyên suốt, từ tầm nhìn thời đại mà tổng kết và xác định phương hướng phát triển 5 năm. Làm được như vậy, các vấn đề của 5 năm trước và sau Đại hội sẽ được nhận diện có chiều sâu, mang tính hệ thống - khách quan hơn.

Phóng viên: Trong bối cảnh đặc biệt hiện nay Nghệ An phải đối diện với những thách thức cao hơn khi mà quy mô kinh tế nhỏ, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chưa cân đối được thu - chi, GRDP đầu người mới bằng 2/3 cả nước, theo PGS tổng kết nhiệm kỳ 2015 - 2020 cần phải nhận diện những vấn đề gì? Dự thảo Báo cáo đã thể hiện đầy đủ chưa?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Nhiệm kỳ này, Nghệ An phải nhận diện thật khách quan và thật rõ thực trạng hiện tại (là gì, đang ở đâu), phải xác định đúng thực lực và lợi thế, điểm yếu và điểm mạnh, không thể chỉ "kê biên" những việc đã làm, thống kê thành tích, liệt kê những gì chưa làm được trong mấy năm qua, cũng không phải nặng phê phán, chỉ trích, chê bai. Mục tiêu chính là nhận diện đúng "thực trạng - có vấn đề" để tìm phương hướng giải quyết phù hợp.

Việc tổng kết là cần thiết, nhưng để làm nền tảng định hình chính xác khát vọng phát triển, tạo cơ sở để hoạch định một chiến lược "đúng tầm thời đại", việc tổng kết không thể chủ yếu tập trung kê biên thành tích của 5 năm qua cộng với một số điểm "tuy nhiên, nhưng mà" theo cách viết báo cáo truyền thống. Mục tiêu của tổng kết cần làm rõ thực lực kinh tế - xã hội (bao gồm thực lực kinh tế - xã hội, năng lực thể chế - bộ máy, các điều kiện phát triển nền tảng - hạ tầng, nhân lực, công nghệ) của Nghệ An với tư cách là "năng lực xuất phát" cho "cuộc đua" mới. Nghĩa là cần phân tích sâu, đánh giá khách quan và nhận diện chính xác những năng lực phát triển cơ bản mà Nghệ An đang sở hữu so với 10-20 năm trước (để xác định Nghệ An đã thực sự tiến đến đâu, đang ở đâu?), tạo thành nền tảng xuất phát cho giai đoạn mới (để xác định năng lực đáp ứng các yêu cầu phát triển hiện đại, thông qua việc đánh giá thực lực và trình độ các lĩnh vực: cơ sở du lịch hiện đại (đẳng cấp cao), đô thị - hiện đại hóa và bản sắc, hạ tầng kết nối và các tuyến liên kết phát triển vùng - quốc tế (sân bay quốc tế, các tuyến đường kết nối), môi trường kinh doanh, lực lượng doanh nghiệp, sức hấp dẫn đầu tư, v.v.).

Về đánh giá tổng quát: Cần nhận diện những nền tảng phát triển mới của Nghệ An như: Hạ tầng kết nối, hạ tầng công nghiệp, hạ tầng đô thị, nhân lực, doanh nghiệp, ba tuyến phát triển ưu tiên được nêu trong NQ- 26 BCT, đặc biệt thành phố Vinh, đô thị trung tâm - thủ phủ vùng; Những yếu tố giúp định hình cấu trúc phát triển hiện đại của tỉnh: Công nghiệp (bước tiến quy mô và đẳng cấp), du lịch, nông nghiệp (đặc sản, chuỗi sản xuất,...);

Đặc biệt đánh giá vai trò, chức năng của Nghệ An trong phát triển quốc gia và vùng (các địa phương lân cận), có thể trở thành trung tâm vùng Bắc Trung bộ.

Cần làm rõ trong nhiệm kỳ qua: Việc phát triển thành phố Vinh có được đặt đúng hướng và đúng tầm NQ26-BCT là xây dựng Vinh trở thành thủ phủ vùng Bắc Trung bộ, với 10 chức năng vượt trội? Việc lựa chọn phát triển thị xã Thái Hòa, Hoàng Mai đã đúng hướng, đúng tầm để phát huy đầy đủ lợi thế? Miền Tây Nghệ An đã tìm được hướng phát triển mới với các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao? ...

Từ việc tổng kết và đánh giá đó xác định đúng những điểm khuyết và yếu trong cấu trúc phát triển của Nghệ An trên quan điểm hiện đại - trình độ cơ cấu ngành, hiện trạng thu nhập , chất lượng nguồn nhân lực, tình trạng lực lượng doanh nghiệp, năng lực hệ thống thể chế - bộ máy, v.v. Đây là góc độ nhận diện thực trạng - thực lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc lựa chọn các quyết sách chiến lược cho tương lai.

Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ thực lực, cần đánh giá thêm thực trạng 2 tuyến vấn đề:

Thứ nhất, Nghệ An đã tận dụng thật tốt tiềm năng - lợi thế của tỉnh chưa? Hay tỉnh đã có chiến lược tạo lập các điều kiện tiền đề để khai thác hiệu quả tiềm năng - lợi thế (nhân lực, hạ tầng kết nối, hạ tầng đô thị, lực lượng doanh nghiệp - các nhà đầu tư chiến lược) cho giai đoạn tới?

Thứ hai, Nghệ An đã xác lập, triển khai và thực hiện chức năng phát triển vùng - quốc gia của Nghệ An - trên 3 cấp độ: 1) trung tâm hội tụ - lan tỏa phát triển vùng Bắc Trung bộ;  2) trung tâm dẫn dắt phát triển hiện đại của vùng Bắc Trung bộ; 3) chủ động tổ chức liên kết phát triển - như thế nào?

Bên cạnh đó, ngoài việc xác định rõ nguyên nhân thành công, cần đặc biệt mổ xẻ nghiêm túc và khách quan các nguyên nhân "chưa thành công" mà theo tôi, có mấy điểm cần lưu ý là:

-  Tầm nhìn phát triển Nghệ An và TP. Vinh chưa bảo đảm tận dụng tốt "lợi thế" mà NQ-26 trao cho;

-  Thiếu cơ chế, chính sách đột phá để thu hút các nhà đầu tư chiến lược đẳng cấp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp, lôi kéo người giàu, người giỏi, nhân tài của Nghệ An về phát triển Nghệ An;

-  Còn bị trói buộc, hạn chế của nhiều cơ chế, chính sách chung nên tỉnh không thể chủ động, khó chịu trách nhiệm đến cùng, khó sáng tạo và linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành;…

Đặc biệt, Nghệ An cần chú ý các bài học về "Tầm nhìn" kết hợp "Nắm bắt cơ hội" để tiến vượt bậc; về liên kết phát triển vùng;…

Phóng viên: Vậy thưa PGS, từ thực trạng của Nghệ An hiện nay, đặt trong bối cảnh đặc biệt của thế giới, về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp đã xác định, Dự thảo Báo cáo cần phải bổ sung thêm những nội dung gì để Nghệ An vượt qua thách thức, tiến vượt trong những năm tới?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Trước khi xác định mục tiêu, cần chú ý làm rõ "Bối cảnh phát triển và tác động". Như đã nói, thế giới và thời đại rất khác. Trong khi đó, Nghệ An mở cửa - hội nhập ngày càng sâu rộng. Do vậy, nhận diện bối cảnh phát triển càng rõ, thì tầm nhìn càng sáng, đánh giá tác động càng chuẩn, đề xuất chiến lược và giải pháp càng có căn cứ.

Viết "Bối cảnh" tốt là để thể hiện tầm nhìn, cách tiếp cận phát triển mang tính thời đại, để thoát khỏi cách viết cũ, chỉ viết mấy dòng cho có, thì chưa phù hợp với tư duy thời mở cửa - hội nhập, tư duy phát triển vùng chưa được coi trọng.

Trong nội dung "Bối cảnh", cần khái quát 3 yếu tố sau:

1. Thời đại (CMCN-4.0, Thời đại kinh tế số, Đô thị thông minh);

2. Thế giới (Toàn cầu hóa, mở cửa - hội nhập được đẩy mạnh với những động thái mới; xung đột Mỹ - Trung; dịch chuyển các chuỗi sản xuất - thương mại toàn cầu, nhu cầu sản phẩm và nhu cầu du lịch của thế giới thay đổi, v.v.);

3. Môi trường tự nhiên (biến đổi khí hậu, dịch bệnh, thiên tai, v.v.);

Cũng phải đánh giá đúng các vấn đề của Việt Nam, được hiểu như là bối cảnh và điều kiện phát triển của Nghệ An - Thế mới, lực mới, khát vọng tiến vượt, đuổi kịp, nỗ lực đẩy mạnh cải cách, thực trạng phát triển doanh nghiệp, v.v.

Bối cảnh mới, rất mới và khác tạo điều kiện và cơ hội, đồng thời buộc Nghệ An phải đổi mới cách tiếp cận phát triển, tư duy chiến lược và hành động trong giai đoạn mới.

Phóng viên: PGS nói gì về tầm nhìn chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Nghệ An trong giai đoạn tới?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Tôi nghĩ trước khi bàn đến tầm nhìn, mục tiêu, nhiệm vụ, sau khi làm rõ bối cảnh và tác động, cần nhận diện lại các lợi thế phát triển của tỉnh. Điều kiện phát triển mới, thời đại thay đổi thì lợi thế - bất lợi thế cũng khác. Kết hợp với các lợi thế vốn có, Nghệ An có tổ hợp lợi thế phát triển mới: Lợi thế quy mô, lợi thế đi sau, lợi thế được chọn là Trung tâm - thủ phủ phát triển của vùng Bắc Trung bộ, lợi thế đặc sắc lịch sử - văn hóa - con người. Tổ hợp lợi thế đó quy định tính độc đáo, khác biệt trong lựa chọn chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của Nghệ An trong giai đoạn tới.

Đối với mục tiêu và phương hướng phát triển, cần nhấn mạnh khát vọng phát triển của Nghệ An - sẽ có "chân dung" thế nào sau 10 năm, trên cơ sở đó, cụ thể hóa mục tiêu cho 5 năm tới; Cần chú trọng các định hướng (giải pháp) chiến lược: hiện đại hóa, tạo khác biệt, liên kết hội nhập, đột phá - đổi mới - sáng tạo, tức là những giải pháp cho phép đạt được mục tiêu. Ví dụ: Sau 10-15 năm, Nghệ An thịnh vượng và hiện đại, phát triển bền vững trên nền tảng công nghệ cao, môi trường trong lành, có thương hiệu mạnh, là Trung tâm đổi mới - sáng tạo của vùng Bắc Trung bộ; còn sau 5 năm (đến 2025), xây dựng Nghệ An thành Trung tâm hội tụ nguồn lực phát triển chất lượng cao của vùng, có sức hấp dẫn đầu tư và hấp dẫn du khách mạnh. Đấy là tôi nói ví dụ, căn cứ vào sự hiểu biết hạn hẹp của tôi về Nghệ An.

Về Mục tiêu, nên xác định các mục tiêu lớn cho các lĩnh vực: Kinh tế - xã hội - môi trường, đáp ứng 2 tiêu chuẩn cơ bản: đẳng cấp - trình độ phát triển (so với Nghệ An hiện tại và so với các địa phương khác) và tính bền vững.

Tuy nhiên, các mục tiêu phải đủ cụ thể, là đích phát triển mà Đảng bộ Nghệ An cam kết đạt được với dân Nghệ An, với Trung ương. Đó là: cấu trúc ngành dịch chuyển theo định hướng (trên nền tảng) phát huy lợi thế và công nghệ cao như thế nào? Phát triển thành phố Vinh trở thành đô thị - thủ phủ vùng hiện đại, thông minh, sáng tạo và bản sắc như thế nào? Rồi chân dung các đô thị - kết nối phát triển như Thái Hòa và Hoàng Mai; Sân bay Vinh là sân bay quốc tế kiểu gì? Về mục tiêu xã hội: Nghệ An có định xây dựng thành hình mẫu địa phương hội nhập quốc tế, văn minh, bản sắc hay không? v.v.

Xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025, cần đề cập đến các vấn đề "có vấn đề". Nghệ An muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu thu nhập thì phải tính đặt mục tiêu "thu hẹp" khoảng cách tuyệt đối GDP/người hay thu nhập. Trong Dự thảo Báo cáo, mục tiêu GDP đề xuất chưa thể hiện rõ khát vọng phát triển và quyết tâm hành động của Nghệ An: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2021-2025 cao hơn mức trung bình cả nước là "đúng nhưng chưa đủ", vì do xuất phát điểm thấp hơn nên trong quãng thời gian ngắn, Nghệ An có thể chưa thu hẹp tuyệt đối khoảng cách tụt hậu. Khi đó, Nghệ An phải đặt thêm mục tiêu: "giai đoạn 2020-2025, Nghệ An đặt nhiệm vụ tạo lập các điều kiện nền tảng để bứt phá phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo, để nhanh chóng tiến kịp các địa phương đi trước",…

Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Đây là nội dung đặc biệt quan trọng vì tính thực chất của nó (xác định các ưu tiên chiến lược). Vì thế, cần được luận chứng và luận giải đủ rõ (chi tiết, các luận cứ và các nội dung lớn của Nhiệm vụ và Chương trình), gắn với cách tiếp cận "phát huy tiềm năng, lợi thế để đột phá phát triển".

Trong Dự thảo, các nhiệm vụ phát triển ngành được viết khá chi tiết. Tuy nhiên, tôi thấy phải nhấn mạnh hơn khía cạnh "trình độ, đẳng cấp ngành" (khía cạnh công nghệ cao, kết cấu chuỗi và định hướng thị trường thế giới", đặc biệt cho các sản phẩm chủ lực ngành của Tỉnh. Ngoài ra, cần bổ sung nhiệm vụ - mục tiêu phát triển đô thị (hay đô thị hóa) với tư cách là trục quyết định hướng hiện đại hóa, tiến vượt lên của Tỉnh. Có đô thị hóa - hiện đại hóa thì mới có Trung tâm đổi mới - sáng tạo, Trung tâm tăng trưởng (liên kết phát triển công nghiệp - dịch vụ đẳng cấp); mới thực hiện được nhiệm vụ "tăng tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP lên 45-50% năm 2025", v.v.

Cũng cần xác định rõ, dứt khoát nhiệm vụ "phát triển vùng kinh tế miền Tây" là nhiệm vụ ưu tiên chiến lược mang tính đột phá trong giai đoạn tới. Đây là một trong những nền tảng cơ bản để Nghệ An bứt phá trên cơ sở tận dụng tiềm năng lợi thế đặc thù - đặc sắc trong khuôn khổ một Chương trình Phát triển đặc biệt: kết hợp giữ vườn rừng Quốc gia với phát triển nền nông nghiệp đặc sắc, giá trị gia tăng cao.

Do "đặc thù địa linh nhân kiệt", con người là thế mạnh nhất, lại đúng vào thời đại công nghệ cao, trí tuệ - sáng tạo, Nghệ An cần phải đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ "Phát triển giáo dục - đào tạo" và "Khoa học, công nghệ", coi đây là hai nhiệm vụ chiến lược ưu tiên hàng đầu. Tôi có cảm tưởng Nghệ An chưa định vị đúng các yếu tố quyết định phát triển hiện đại này trong sơ đồ chiến lược của mình.

Đối với nhiệm vụ "Phát triển doanh nghiệp và kinh tế tập thể", nên tập trung đối tượng cho một nhiệm vụ ưu tiên: "Phát triển lực lượng doanh nghiệp và thu hút các nhà đầu tư chiến lược". Cần xác định đây là "nhiệm vụ chiến lược ưu tiên", thậm chí ưu tiên hàng đầu, của giai đoạn tới. Chương trình Phát triển lực lượng doanh nghiệp, với nội hàm: i) khuyến khích phát triển doanh nghiệp trong tỉnh; ii) thu hút một số nhà đầu tư chiến lược có năng lực tạo chuỗi sản xuất hiện đại và tạo chân dung phát triển của tỉnh; iii) chương trình đổi mới - khởi nghiệp - sáng tạo, lấy ĐH Vinh làm trụ cột.

Để đạt được các mục tiêu - đích phát triển, Nghệ An cần "trở thành địa chỉ có sức thu hút mạnh mẽ đầu tư lớn, người tài và người giàu". Đây là 3 đối tượng - đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu, tạo thành động lực phát triển chủ yếu của tỉnh trong giai đoạn tới; Nỗ lực cải cách thể chế và các quyết sách chiến lược của tỉnh trong giai đoạn 2020 - 2025 phải tập trung ưu tiên cho việc thực hiện bằng được nhiệm vụ - giải pháp chiến lược này.

Xin cảm ơn PGS về cuộc trao đổi!

TOÀ SOẠN

 

Lương Thanh Hải

Bàn về tính cách con người ở một vùng, miền nhiều nhân kiệt như Nghệ An trong khuôn khổ một bài viết là không thể, bởi điều đó đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, điều tra, trao đổi, thảo luận, phân tích, tổng hợp, suy ngẫm, đánh giá và tổng kết một cách khoa học. Đây thực sự là một đề tài khoa học lớn cả về quy mô, thời gian, lực lượng thực hiện. Đây cũng là một công việc rất cần thiết hiện nay, bởi không hiểu người Nghệ nói chung, tính cách người Nghệ nói riêng, thì không thể phát huy hết sức mạnh tiềm năng của họ, công tác lãnh đạo, quản lý sẽ khó tối ưu hóa được.      

Nghệ An đã từng có một chương trình khá quy mô với 6 đề tài nghiên cứu về con người Nghệ An cách đây đã hơn hai chục năm(1). Đó là Chương trình "Con người Nghệ An trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", do PGS. Lê Bá Hán làm chủ nhiệm, trong đó có Đề tài "Bản sắc con người Nghệ An trong tiến trình lịch sử và qua những năm của sự nghiệp đổi mới" với hai nội dung quan trọng về con người xứ Nghệ: thứ nhất, con người xứ Nghệ trong tiến trình lịch sử; thứ hai, con người xứ Nghệ qua những năm đổi mới. Chúng tôi rất chia sẻ quan điểm với nhóm các tác giả của Đề tài này, vì thực chất khi đó mới chỉ có 10 năm, với quan điểm cho rằng, trong tiến trình lịch sử bản sắc con người xứ Nghệ là "cần cù, nhẫn nại, ham học, tiết kiệm, căn cơ, giản dị, nhân hậu, trung thành, dũng cảm, khảng khái, cương quyết nhưng cũng dễ chủ quan, bảo thủ". Ở một góc độ khác, Ban Chủ nhiệm chương trình khi đó lại nhấn mạnh rằng: Những nét nổi trội trong tính cách con người xứ Nghệ là: "1. Giàu nghĩa khí; 2. Ý chí mạnh, quyết tâm cao; 3. Cương trực; 4. Hiếu học đến khổ học - có tiềm năng trí tuệ; 5. Rất mực cần kiệm, giản dị".

Theo chúng tôi, đây là những đặc tính, đặc điểm, tính chất của con người xứ Nghệ nhìn từ chiều cạnh tích cực, chính xác hơn thì đây là những phẩm chất của con người xứ Nghệ(2). Nhưng, tính cách con người xứ Nghệ không chỉ có vậy. Mặt khác, những đặc tính, đặc điểm hay đặc trưng nêu trên không thể nói là không có ở những con người các khu vực, địa phương, tỉnh, thành khác. Việc xác định tính cách con người xứ Nghệ thông qua nghiên cứu, chắt lọc ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý, các học giả và những người nổi tiếng trong lịch sử và trong hiện tại là rất quan trọng, nhưng chưa thể đầy đủ và toàn diện. Theo chúng tôi, cần có một chương trình nghiên cứu toàn diện hơn, rộng lớn hơn, sâu sắc hơn không chỉ dựa trên phân tích, tổng hợp ý kiến của các học giả, chuyên gia người Nghệ như đã nói ở trên, mà phải có ý kiến, nhận xét của cả các học giả, chuyên gia ngoài Nghệ nhưng có vốn hiểu biết sâu sắc về con người và văn hóa xứ Nghệ. Việc điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học, kiến thức, vốn sống, trải nghiệm cá nhân trong văn hóa xứ Nghệ, trong giao lưu với con người xứ Nghệ và ngoài xứ Nghệ, đều rất cần thiết và không thể thiếu để minh định tính cách con người xứ Nghệ. Việc sử dụng tổng hợp, đồng bộ, phù hợp các cách tiếp cận khác nhau cũng là đòi hỏi tất yếu(3).

Tính cách con người xứ Nghệ, không chỉ bao hàm các đặc trưng, đặc tính như cần cù, nhẫn nại, ham học, tiết kiệm, căn cơ, giản dị, nhân hậu, trung thành, dũng cảm, khảng khái, cương quyết (Đề tài KX-1-NA.01); hay Giàu nghĩa khí; Ý chí mạnh, quyết tâm cao; Cương trực; Hiếu học, có tiềm năng trí tuệ; Rất mực cần kiệm, giản dị (Ban Chủ nhiệm Chương trình KX-1-NA). Tinh thần yêu quê hương, đất nước; tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng cũng là những nét tính cách đặc trưng của con người xứ Nghệ. Ở chiều cạnh hạn chế con người xứ Nghệ trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế… hiện nay cũng có nhiều đặc tính khác, chứ không chỉ là chủ quan, bảo thủ, hay khổ học mà thôi.

Con người xứ Nghệ hiếu học chứ không phải là khổ học. Với người ngoài nhìn vào và đánh giá trên hệ quy chiếu bên ngoài văn hóa xứ Nghệ có thể có nhận định là người Nghệ khổ học. Nhưng với người Nghệ các nét đặc trưng như có ý chí mạnh, quyết tâm cao, kiên cường, bản lĩnh thì với họ việc học không trở thành khổ học, mà ngược lại là ý chí, quyết tâm, kiên định, hiếu học thể hiện thành hành động. Thậm chí đó còn là niềm đam mê của con người xứ Nghệ. Cũng cần phải nói thêm rằng, từ thế kỷ XV đến nay trong văn hóa xứ  Nghệ có hẳn phong trào khá nổi trội là hướng đến khoa bảng và học vấn. Phong trào này lúc mạnh, lúc yếu, lúc bùng lên cao trào, lúc lắng xuống âm thầm. Nhưng chưa bao giờ tắt. Chính phong trào đó đã nuôi dưỡng, củng cố tinh thần hiếu học đến say mê của đông đảo con người xứ Nghệ. Với họ, học không phải là khổ học, mà học là nhu cầu tự thân. Mặt khác cũng phải thấy rằng, để thành công, thành đạt, và hơn nữa, thành tài, không ai không phải lao động miệt mài, say mê, vất vả. Để thành công, bằng sự học thì điều đó cũng không sai. Trong đời sống xã hội bao ngành nghề, lĩnh vực hoạt động cũng phải khổ luyện mà chưa hẳn đã thành công, thành tài. Vì vậy nhận định rằng ở con người xứ Nghệ hiếu học đến khổ học là không chuẩn xác.

Con người xứ Nghệ cũng không phải vì khổ mà họ học, cũng không hoàn toàn là họ học với mục tiêu làm quan. Nhiều thế hệ ông đồ Nghệ học xong chỉ để dạy học, không ra làm quan, dù nghèo vẫn không đổi nghề dạy học. Tính chất khảng khái, nghĩa khí, cương trực, trung thành, dũng cảm, cương quyết khiến cho nhiều người xứ Nghệ có thể làm quan. Nhưng không vì thế mà làm quan trở thành mục đích trực tiếp cho sự ham học của họ. Nếu vì khổ mà hiếu học thì ở Việt Nam còn có những vùng nghèo, khổ hơn xứ Nghệ mà vẫn không thể hiếu học? Nếu chủ quan người Nghệ cũng không thể thành đạt, thành công, không thể thành danh nhiều như vậy. Trái lại, họ căn cơ, nhẫn nại, quyết tâm cao thì khó có thể rơi vào chủ quan. Nếu họ hiếu học, chịu khó, có tiềm năng trí tuệ thì cũng khó có thể có đặc tính chủ quan.

Nhận định con người xứ Nghệ dễ chủ quan, bảo thủ cũng là nhận định không chính xác. Nói đến tính cách của con người xứ Nghệ là nói đến đặc tính, đặc điểm của số đông, của đa số, chứ không thể lấy cá biệt hoặc của số ít. Không thể không có người xứ Nghệ chủ quan, bảo thủ. Vùng đất nào chả có những con người chủ quan hoặc bảo thủ. Nhưng đó không thể là đặc tính, tính chất của đại đa số người Nghệ, càng không thể là tính cách nổi trội cả theo nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp của thuật ngữ. Chưa thể tiến hành điều tra, thống kê và suy ngẫm kỹ những lập luận, luận chứng của nhận định này. Nhưng qua tiếp xúc, trao đổi, trải nghiệm, với rất nhiều người trong và ngoài xứ Nghệ và qua tìm hiểu các danh nhân xứ Nghệ trong lịch sử thì chúng tôi rút ra rằng nhận định này không có căn cứ. Trái lại, rất nhiều con người xứ Nghệ là những đại biểu cho các tư tưởng cách tân, đổi mới. Sự thành đạt của nhiều nhân vật xuất thân từ xứ Nghệ trong các lĩnh vực học thuật, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao đều nhờ tư duy cách tân, đổi mới, sáng tạo. Hơn nữa, nếu đã nhận định rằng con người xứ Nghệ có tiềm năng trí tuệ, ham học… thì những đặc tính ấy tự chúng đã không dung hợp với thái độ, tính cách chủ quan và bảo thủ. Con người xứ Nghệ có thể có nhiều đặc tính, tính chất, đặc điểm xấu. Nhưng, chủ quan, bảo thủ chắc chắn không phải là tính chất của số đông con người xứ Nghệ.

Tính chất, đặc tính, đặc điểm hay phẩm chất nổi trội đầu tiên trong tính cách con người xứ Nghệ theo nghĩa rộng là tình yêu quê hương đất nước sâu đậm. Tình yêu quê hương, đất nước của con người xứ Nghệ mang sắc thái khác biệt với con người ở các vùng, miền ở tính nồng nàn, sâu đậm, quyết liệt, cương quyết, mạnh mẽ, quyết đoán, sẵn sàng hy sinh bản thân vì đất nước. Sự nghiệp dựng nước, giữ nước, giành độc lập dân tộc trong lịch sử từ khi có sự tham gia của con người xứ Nghệ thể hiện những tính chất này khá rõ. Nghiên cứu lịch sử xứ Nghệ và các nhân vật lịch sử của xứ này cho thấy trong nhiều tình huống, chính tinh thần yêu nước sâu đậm, mãnh liệt, sẵn sàng hy sinh tất cả nên những con người xứ Nghệ đó đã có những quyết định táo bạo, bất ngờ, dũng cảm ở những thời điểm quyết định. Cũng chính tinh thần ấy đã tạo nên cặp thuật ngữ "vinh - nhục" rất độc đáo trong văn hóa xứ Nghệ xưa và nay.

Tình yêu quê hương, đất nước còn thể hiện ở tính cộng đồng của người Nghệ. Đặc điểm này thể hiện rất rõ nét và nổi trội hẳn khi người Nghệ đi ra ngoài xứ Nghệ, đặc biệt là khi ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống. Người Nghệ dễ gần gũi dễ tiếp xúc với nhau, dễ tin nhau và dễ hợp tác với nhau hơn, đoàn kết và bảo vệ nhau trong cuộc sống tạo thành cộng đồng không chính thức hoặc chính thức ở khắp nơi trên thế giới. Con người Nghệ ở hầu hết các nước mà tôi đã đến đều có tính cộng đồng, cố kết mạnh mẽ. Điều đó tạo cho họ sức mạnh tinh thần lẫn vật chất, vượt qua khó khăn để tồn tại và phát triển.

Tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm, mãnh liệt của con người xứ Nghệ kết hợp với cách phẩm chất khác, một mặt, củng cố thêm các phẩm chất đó, làm nên tính cách đặc trưng của con người xứ Nghệ, nâng cao tầm tư duy đại cục của họ; mặt khác, làm giảm nhẹ những đặc điểm, tính chất xấu, tiêu cực đang cần gạt bỏ. Chính tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm đã bồi đắp cho những đặc tính đó trở nên nổi trội trong con người xứ Nghệ xưa và nay. Luận điểm đúc kết giá trị dân tộc Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta", chắc chắn được rút ra từ sự trải nghiệm đầu tiên khi vừa sinh ra và lớn lên trong bầu không khí văn hóa thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước của xứ Nghệ.

Thẳng thắn, cương trực là tính cách nổi trội xưa nay của con người xứ Nghệ. Tính cách này đã có từ xa xưa, nhưng "thẳng thắn đến thô thiển" thì chúng tôi chưa thấy, chưa cảm nhận ra, chưa thấy luận giải, luận chứng nào có sức nặng. Tính cách này ở một số nhân vật trong lịch sử đã trở thành hiện tượng khác thường với các vùng, miền khác của đất nước, là tính cách cá nhân. Nhưng ở xứ Nghệ đó là tính cách của cộng đồng, của số đông "Nhân dân Nghệ-Tĩnh nổi tiếng cứng đầu". Cái cứng đầu đó hoàn toàn không có nghĩa là ương bướng, là ngang ngạnh, là "cùn", là "phá bĩnh". Đằng sau đặc tính đó là hàng loạt các đặc tính tích cực khác, nhất là yêu quê hương, đất nước, là ham học, là nhẫn nại, là nhân từ,… cùng tồn tại gắn kết và trầm tích nên đó là cái "cứng đầu" hợp lý, hợp tình.

Người Nghệ ngày nay qua hơn 30 năm đổi mới thì đã không còn "cứng đầu" như trong lịch sử. Người Nghệ hiện nay mềm dẻo, tư duy biện chứng và linh hoạt không những hơn xưa mà còn hơn nhiều vùng miền khác. Đặc tính cứng đầu trong họ không còn như xưa, nhưng không phải đã hoàn toàn biến mất. Cứng đầu là dám bảo vệ cái đúng, cái hợp lý, hợp tình, hợp luật, phản đối và chống lại cái sai, cái tiêu cực đến cùng vì lợi ích chung, chứ không vì chủ nghĩa cá nhân.

"Cứng đầu" ở con người xứ Nghệ thể hiện sự thẳng thắn, cương trực, trọng đạo lý, theo lẽ phải, khảng khái, không chịu khuất phục trước cái sai, cái phi lý, trái nguyên tắc. Cũng có ý kiến cho rằng "cứng đầu" ở con người xứ Nghệ có hàm ý "cứng nhắc" trong công việc. Chúng tôi cho rằng cứng nhắc trong công việc hoàn toàn không chung nội hàm với "cứng đầu" trong cuộc sống và nhất là trong công việc. Có thể, người Nghệ trong lịch sử và cả hiện nay vẫn "cứng nhắc" trong công việc và trong cuộc sống. Điều này cần được nghiên cứu nghiêm túc. Nhưng đó là đặc tính xấu, tiêu cực, chúng tôi không bàn đến chủ đề những đặc tính xấu, tiêu cực ở đây. Nhưng chúng tôi chỉ muốn khẳng định "cứng đầu" bao hàm những đặc điểm như đã nói thì không đồng nghĩa với "cứng nhắc". "Cứng đầu" theo nghĩa đã nói là phẩm chất cần có, cần phát huy, đặc biệt là trong bối cảnh mới hiện nay khi tác động của kinh tế thị trường thế giới, của cách mạng KHCN, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, của những vấn đề toàn cầu đang ngày một mạnh mẽ đến con người xứ Nghệ và con người Việt Nam nói chung. Những tác động mạnh mẽ của những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, và nhiều mặt khác của đời sống xã hội đã tạo nên môi trường cọ xát, tiếp biến, chắt lọc, chọn lựa, đào thải, bổ sung, phát triển và nẩy sinh những nội dung của những đặc điểm, đặc tính, tính cách của con người xứ Nghệ. Nhưng, những phẩm chất - tính cách tốt đẹp cả theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp, cả bản sắc lẫn tính cách nổi trội của họ vẫn được bảo tồn, duy trì, phát huy như là những giá trị của thời hiện tại. Đó chính là những giá trị con người và văn hóa của con người xứ Nghệ, góp phần tạo hành lang điều chỉnh, định hướng giáo dục - nhất là giáo dục gia đình và tự giáo dục của các thế hệ con người xứ Nghệ. Chính nhờ vậy mà con người xứ Nghệ và xứ Nghệ nói chung vẫn luôn thành công trong nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.

Như đã nói, chưa thể có được các khảo cứu chuyên biệt và có quy mô bằng các khảo sát xã hội học, các phỏng vấn, tạo đàm, thảo luận sâu, những thống kê chính xác về các đặc tính, phẩm chất nổi trội của con người xứ Nghệ. Chúng tôi dựa trên các căn cứ sau đây: Thứ nhất, đó là những suy ngẫm dựa trên sự so sánh, cảm nhận trực tiếp, tiếp thu, trong quá trình học tập, sinh sống và trưởng thành từ thời thơ ấu, cho đến lúc lớn lên và mỗi lần trở về quê hương xứ Nghệ. Thứ hai, đó là những suy ngẫm dựa trên những trải nghiệm, qua tiếp xúc, trao đổi, so sánh với con người ở nhiều vùng, miền, nhiều thành phần, tầng lớp xã hội cả trong và ngoài nước; Thứ ba, đó là những suy ngẫm dựa trên tìm hiểu các danh nhân xứ Nghệ trong lịch sử, các ý kiến, các nghiên cứu đã được công bố về các đặc tính, phẩm chất của con người xứ Nghệ. Chúng tôi rút ra rằng: Con người xứ Nghệ hiện nay có các phẩm chất nổi bật sau đây: 1- Yêu nước nồng nàn; 2- Thẳng thắn - cương trực; 3- Hiếu học; 4- Cần cù; 5- Nhân ái - vị tha; 6- Có tiềm năng trí tuệ - sáng tạo; 7- Anh hùng - dũng cảm; 8- Tiết kiệm -  Căn cơ; 9- Giản dị; 10- Kiên cường - quyết tâm cao.

Những tính cách nổi trội, các phẩm chất chính này, cơ bản vẫn xuất phát từ truyền thống, từ văn hóa và quá trình lịch sử. Nhưng hơn 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập, cùng với cả nước con người xứ Nghệ có nhiều đổi thay trên nhiều phương diện, trong đó có cả các đặc tính, tính cách, phẩm chất. Sự thay đổi đó diễn ra và thể hiện ít nhất trên 2 phương diện. Phương diện thứ nhất là thay đổi trong nội dung, phương thức, mức độ biểu hiện của các đặc tính, tính cách. Phương diện thứ hai là thay đổi thang bậc, trật tự nổi trội của các đặc tính. Không thay đổi hoàn toàn, nhưng sự hoán đổi một số vị trí là có, dù có những vị trí hiện rất khó xác định và luận chứng, do chưa được điều tra kỹ lưỡng.

Người Nghệ xưa và nay đều thẳng thắn - cương trực. Nhưng hơn ba thập kỷ phát triển đất nước vừa qua đã giúp họ mềm dẻo hơn, năng động và linh hoạt hơn xưa nhiều. Thẳng thắn, cương trực ở người Nghệ vẫn đậm chất Nghệ, nhưng không còn "cứng đầu", càng không "cứng nhắc", "cứng cỏi" trong giao tiếp, trong công việc và đời sống như xưa. Với thế hệ trẻ hiện nay, điều này thể hiện rất rõ. Những con người xứ Nghệ thành đạt, thành công, thành danh ở chính trên đất Nghệ và ở khắp các vùng, miền trong cả nước và ở nước ngoài đã chứng tỏ điều đó. Những con người xứ Nghệ hoạt động trên khắp các lĩnh vực, nhất là trong thương trường, trong lãnh đạo, quản lý, trong ngoại giao, quân sự, và có những thành công không thể là những người "cứng nhắc", "cứng đầu", "cứng cỏi" như ngày xưa. Ham học hỏi, giao lưu và hội nhập, thị trường và các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ như internet, điện thoại thông minh, mạng xã hội, v.v… đang làm cho con người xứ Nghệ ngày càng thay đổi tính cách thích ứng nhanh hơn, tốt hơn(4). Nhưng trong chiều sâu tư tưởng và tâm hồn, trong truyền thống và tập quán, lối sống những tính cách nổi trội theo nghĩa những phẩm chất tốt đẹp, vẫn còn rất sâu đậm.

Ham học hay hiếu học hiện vẫn là một phẩm chất căn bản làm nên tính cách con người xứ Nghệ. Nhưng hiếu học của người Nghệ giờ đây đã mang tính thực tế, "thực dụng" hơn xưa. Điều này được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau. Thế hệ trẻ hiện chọn ngành, nghề thực tế hơn hẳn các thế hệ của những năm 1990s hay 2000s. Họ lựa chọn bậc học, ngành học, chỗ học sát thực tế hơn các thế hệ trước đó. Quá trình học và cách học cũng được "căn cơ" tối đa cho sát hợp với thực tế. Ở nước ngoài dù đi học hay đi lao động người Nghệ vẫn thể hiện sự mày mò, ham mê tìm hiểu, học hành. Không chỉ với chính học mà cả với con cái, thế hệ tiếp sau họ cũng đã được trao truyền "gen hiếu học". Người Nghệ xưa nay, nhà dù giàu hay nghèo, đều dành dụm nguồn lực có được cho con cái "kiếm dăm ba chữ" trước khi nghĩ đến chuyện giàu có tiền bạc ruộng vườn cho chúng. Bản tính này vẫn còn dù có những thay đổi trong biểu hiện và nội dung, dù không nhiều như các đặc tính khác. Sự học vẫn được người Nghệ xếp bậc cao hơn trong thang bậc các đặc tính, phẩm chất, tính cách hiện thời.

Cần cù là một đặc tính truyền thống với những biểu hiện riêng, mang chất Nghệ của con người xứ Nghệ. Việc lý giải rằng do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên người xứ Nghệ phải cần cù mới bám trụ được trên xứ sở này. Từ trước thế kỷ XV xứ Nghệ vốn là vùng biên viễn phía Nam của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây cũng là vùng đất "người góp" từ nhiều nguồn, nhiều thành phần xã hội khác nhau. Con người như vậy, điều kiện tự nhiên như vậy buộc con người phải cần cù để khai phá, để khai thác nhằm vươn lên để tồn tại và phát triển. Các thế hệ khác nhau kế tục nhau cứ như vậy tạo nên phong trào, truyền thống, tạo nên "mã di truyền", trở thành truyền thống cần cù trong mỗi con người, mỗi gia đình và cộng đồng.

Mặt khác, phẩm chất cần cù còn là kết quả của các đặc tính khác đã trở thành phẩm chất của cộng đồng. Với tinh thần yêu quê hương, đất nước sâu đậm, với phẩm chất hiếu học, thẳng thắn - cương trực; nhân ái - vị tha; tiết kiệm - căn cơ;… thì tất yếu con người đó sẽ có phẩm chất cần cù. Nhờ cần cù và các phẩm chất khác người Nghệ đã đứng vững và vượt qua bao khó khăn, thách thức. Chính điều này và sự thành công của con người xứ Nghệ lại củng cố thêm đức tính cần cù đó. Bối cảnh mới của đất nước những thập niên gần đây tính cần cù của người xứ Nghệ đã có những thay đổi và biểu hiện khác các thế hệ trước đây. Thế hệ trẻ vẫn cần cù, nhưng nhiều lĩnh vực, ngành nghề, nhất là các thành tựu của cách mạng KHCN và CMCN hiện nay đang làm cho tính cần cù bị lu mờ. Chúng đòi hỏi con người hiện đại phải tiếp cận nhanh, có hiệu quả nhanh, chi phí thấp, giá thành hợp lý, v.v… Nguyên tắc "cá nhanh thắng cá chậm" trong kinh tế thị trường hiện đại đang vào nước ta ào ạt. Cái đó làm cho đức tính cần cù dường như tồn tại nhiều, đậm đặc ở các thế hệ cũ, nhưng đang mờ dần, ít được chú ý ở các thế hệ trẻ sau nay. Trật tự, thứ bậc của cần cù trong thang bậc tính cách nổi trội đang bị lung lay, có thể bị đầy lùi dần xuống các thứ bậc sau trong tương lai không xa nữa.

Ở phương diện thứ hai, thứ bậc của 10 tính cách nổi trội được nêu ở trên là thứ bậc truyền thống và được sinh ra từ điều kiện lịch sử của vùng đất này và quốc gia này. Dù vậy thứ bậc này còn cần được thảo luận, trao đổi, luận giải và luận chứng đầy đủ, chặt chẽ. Nhưng, những dấu hiệu, triệu chứng thay đổi thứ bậc do bối cảnh mới xuất hiện nhiều yếu tố, nội dung và xu hướng khác nhau(5), trong hơn 30 năm qua đã bắt đầu xuất hiện và đang mạnh dần lên. Xã hội và con người đang ngày càng chuyển động vào tương lai với tốc độ ngày càng nhanh. Do vậy, sự thay đổi trong tính cách hiện giờ cũng nhanh hơn trong quá khứ. Một mặt, con người vẫn phải dựa vào quá khứ để tồn tại và phát triển. Nhưng, để tồn tại và phát triển con người lại phải thay đổi các điều kiện bên ngoài lẫn chính bản thân, trong đó có tính cách. Con người xứ Nghệ cũng đang trong tiến trình chung đó. Tính cách của họ cũng đang thay đổi nhanh hơn xưa, thứ bậc các đặc tính phẩm chất cũng đang biến động.

Thời đại CMKHCN và CMCN hiện nay không thể sử dụng đặc tính cần cù như là đặc tính chủ lực quân để giải quyết thắng thua trên bàn cờ phát triển. Nhận thức rõ điều này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ nói chung và cán bộ nói riêng. Chọn cán bộ cần mẫn, cần cù dù cần thiết, nhưng, chắc chắn không có sáng tạo, trí tuệ thì không thể phát triển cả cá nhân lẫn cộng đồng.

Thứ hai, tiết kiệm - căn cơ ở con người xứ Nghệ đang có những chuyển dịch rõ rệt. Người Nghệ đi ra khỏi xứ Nghệ ít thành công bằng sự tiết kiệm - căn cơ như thời xa xưa. Người Nghệ trên đất Nghệ cũng không còn "tiết kiệm đến mức cá gỗ". Người Nghệ đã trở nên hào phóng, rộng rãi, thoáng đãng hơn xưa nhiều. Người Nghệ đang chuyển mình trên thứ bậc của tính cách tiết kiệm - căn cơ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với lãng phí, xa hoa, thiếu tính toán. Không lâu nữa, tiết kiệm - căn cơ phải lùi sâu xuống cuối bảng. Người Nghệ hiện nay cẩn trọng hơn các vùng miền khác, nên tiết kiệm - căn cơ cũng là tất yếu. Nhưng, trong điều kiện hiện nay, sự cẩn trọng không củng cố đặc tính tiết kiệm, căn cơ. Trái lại nó đẩy tiết kiệm - căn cơ lùi sâu xuống đáy bảng nhanh hơn. Những đặc tính khác đang trỗi dậy, lại được điều kiện bên ngoài và bên trong thúc đẩy phát triển khiến cho thang bậc các đặc tính - phẩm chất đang chuyển động thay thế vị trí của nhau khá rõ.

Tất cả các đặc tính - phẩm chất trong bảng thứ bậc đều có thay đổi, chuyển động. Đương nhiên, các thay đổi, chuyển động đó không đồng đều cũng là nguyên nhân đưa đến sự thay đổi thứ bậc các đặc tính, đặc điểm của con người xứ Nghệ hiện nay. Nội dung, phương thức thể hiện các đặc tính - phẩm chất thay đổi, thứ bậc các đặc tính - phẩm chất đó chuyển dịch là tất yếu trong điều kiện mới. Nhưng, điều quan trọng là bảo tồn, duy trì, phát huy được các đặc tính phẩm chất quý báu đó của con người xứ Nghệ để ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng phát triển và có đóng góp to lớn, hiệu quả cho sự phát triển của cộng đồng.

 

Chú thích

(1). Đã có những tài liệu khác nhau ghi chép về các đặc điểm, đặc tính của con người xứ Nghệ của các tác giả trong và ngoài nước. Ở đây chúng tôi chỉ dẫn ra chương trình nghiên cứu này là chương trình mới nhất, có quy mô và dung lượng lớn nhất từ trước đến nay về tính cách con người xứ Nghệ, trong đó có nhiều nội dung mà chúng tôi tán đồng, chia sẻ.

(2). Không nói đến đặc tính "dễ chủ quan, bảo thủ".

(3). Lương Đình Hải, Phát huy đặc tính - giá trị truyền thống con người miền Trung trong bối cảnh hiện nay: cách tiếp cận và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1 (106) - 2020, tr 43- 56.

(4). Chúng tôi đã làm một cuộc thăm dò nhỏ ý kiến về đặc tính thẳng thắn của người Nghệ trong sinh viên và học viên cao học có quen biết ít nhất 01 người xứ Nghệ, 76% số được hỏi ngẫu nhiên cho rằng người Nghệ An thẳng thắn nhưng vẫn mềm dẻo, linh hoạt.

(5). Các yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến con người và tính cách của con người hiện nay gồm: kinh tế thị trường; CMKHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; hạ tầng k

Nguyễn Đình Anh

Trong chương trình giáo dục phổ thông tính từ năm 2000 đến năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: Các lớp ở bậc THCS mỗi năm dành 30 tiết để dạy chương trình địa phương. Hai bậc học còn lại Tiểu học và Trung học phổ thông chưa phải biên soạn và dạy học chương trình địa phương. Chương trình địa phương chủ yếu là những nội dung liên quan tới Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý của địa phương; Kiến thức đưa vào chương trình giáo dục địa phương phải là những nội dung kiến thức không được trùng với nội dung kiến thức đã có trong chương trình giáo dục phổ thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn để dùng chung cho các trường học trên toàn quốc. Từ năm 2015 trở về trước Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An có biên soạn 1 chương trình  Ngữ văn địa phương chung cho tất cả các trường THCS trong tỉnh. Nhưng từ năm 2015 đến nay Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường tạm ngừng dạy học theo chương trình địa phương do Sở biên soạn. Và cũng từ năm 2015 Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An giao hẳn cho các phòng Giáo dục và Đào tạo tự xây dựng chương trình và bài dạy cho chương trình địa phương của huyện mình. Bởi vậy trên thực tế chương trình và tài liệu để dạy học chương trình địa phương môn Ngữ văn và các môn học Địa lý, Lịch sử do Sở Giáo dục và Đào tạo và các huyện biên soạn chỉ dừng lại là tài liệu sử dụng nội bộ. Chất lượng chương trình giáo dục phổ thông giữa các huyện không đồng đều với nhau. Bắt đầu từ năm 2021 trở đi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo chương trình giáo dục địa phương ở phổ thông sẽ được triển khai dạy học cho cả 3 bậc học Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Chương trình giáo dục địa phương được quy định theo chương trình Giáo dục phổ thông mới ban hành từ năm 2018 và sẽ lần lượt được thực dạy từ năm 2021 trở đi hiện đang được Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An tiến hành biên soạn.

Theo nhận biết của chúng tôi thì trong các chương trình địa phương môn Ngữ văn được biên soạn bài bản có chất lượng và có tính chất pháp lý được đưa vào giảng dạy trong các trường THCS thời gian qua là tập chương trình địa phương môn Ngữ văn của thành phố Vinh do tác giả Dương Hồng sưu tập và biên soạn.

Với một thực tế cụ thể như trên nên chúng tôi quyết định lựa chọn phần Văn học trong chương trình địa phương môn Ngữ văn của thành phố Vinh do tác giả Dương Hồng, một nhà quản lý trường học lâu năm sưu tập và biên soạn để làm ngữ dữ liệu cho bài viết này. 

Trong tài liệu môn Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh ngoài một số bài viết để làm dữ liệu dạy học phần từ ngữ, ngữ pháp còn lại phần lớn là các tác phẩm văn học viết về vùng đất, về con người thành phố Vinh và Nghệ An.

Ngoài bài tản văn do chính tác giả viết có nhan đề "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt" làm tài liệu tự chọn cho người dạy thì các tác phẩm văn học trong tài liệu Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh gồm các tác phẩm thuộc các thể loại được nhóm về và sắp xếp theo tuần tự sau:

- Phần văn học dân gian gồm một số câu ca dao về tình cảm gia đình. Một trích đoạn các bài ví, giặm Nghệ - Tĩnh và bài giới thiệu tổng quan về dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh.

- Một số bài thơ thời trung đại viết về Vinh.

- Một số tác phẩm văn học hiện đại viết về Vinh ngày xưa và Vinh hôm nay.

Các mảng tác phẩm đó được bố trí theo yêu cầu mang tính sư phạm phù hợp cho các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.

Đọc các tác phẩm văn học được đưa vào dạy trong phần chương trình địa phương của thành phố Vinh chúng ta (người lớn) và các em học sinh khi được học chương trình môn Ngữ văn địa phương thành phố Vinh sẽ cảm nhận được những tình cảm tốt đẹp, nhân cách cao quý của người Nghệ An nói chung và công dân thành phố Vinh nói riêng. Các tác phẩm đó sẽ góp phần giáo dục thẩm mỹ, tu dưỡng nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ theo con đường đi và cách thức riêng của văn học nghệ thuật.

Sau đây là cảm nhận của chúng tôi về  một số tác phẩm văn học  đã được chọn để đưa vào chương trình dạy học môn Ngữ văn trong các trường THCS ở thành phố Vinh:             

1. Chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh với các tác phẩm: Bài thơ "Dũng Quyết sơn" của  Dương Thúc Hạp (1995-1920) từng làm quan đốc học Nghệ An (1891), "Núi con mèo một trong tứ linh của đô thị Vinh" của nhà nghiên cứu văn hóa Đào Tam Tĩnh, "Nguyễn Viết Nhung, Nguyễn Viết Phú hai cha con, hai vị thành hoàng đất Vinh" của nhà báo Nguyễn Khắc Thuần,  "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt" - tản văn của nhà giáo Dương Hồng đã giúp cho người học hiểu được và tự hào về một đánh giá có tính chất lịch sử về con người và vùng đất thành phố Vinh: "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt".

- Căn cứ để khẳng định thành phố Vinh được mệnh danh là vùng "Địa linh":

"Sát dưới sông Vinh, phía dưới chân núi Quyết có núi Con Mèo, còn gọi tên là núi Kỳ Lân trong những tứ linh của đô thị Vinh: Long, Ly, Quy, Phượng. Tên núi Kỳ Lân có từ xa xưa. Khi Nguyễn Trãi viết sách Dư địa chí có ghi núi Kỳ Lân như một mốc quan trọng trong địa hình Nghệ An và trấn cho phên dậu thứ ba của nước Đại Việt" (Đào Tam Tĩnh). Bài thơ viết bằng chữ Hán "Dũng Quyết sơn" của Dương Thúc Hạp thì cho rằng núi Dũng Quyết là một cảnh quan hùng vĩ, hữu tình, thơ mộng:

Từ mạch Đại Hải núi đứng tách ra

Núi vút cao bên bờ sông Lam

Sườn núi đá lô nhô

Chân núi nước dạt dào

Động núi vách đá phía Nam có chùa Sơn Quang

Vách  núi phía Tây có hòn Ngọc Thỏ

Theo bậc đá lên cao thư thả nhìn xa

Thuyền cá, thuyền buôn lượn lờ trong mây nước.

(Nguyễn Thanh Hải dịch) 

- Thành phố Vinh là "Vùng đất nhân kiệt" đã được nhà giáo Dương Hồng diễn giải như sau:

"Vinh đã nuôi dưỡng nhiều nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng: Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Lê Viết Thuật… Vinh là nơi đầu tiên Trần Phú đến với cách mạng. Các đồng chí Hà Huy Tập, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh đều đã đến Vinh, lấy Vinh làm địa bàn chiến lược để xây dựng phong trào cách mạng.…Vinh là quê hương của nhiều lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Đại tướng Chu Huy Mân, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm; Các nhà khoa học lớn Nguyễn Xiển, Nguyễn Khánh Toàn; Các nhà  thơ, nhà văn Minh Huệ, Nguyễn Trọng Oánh…. Vinh là thành phố được gọi tên là thành phố đỏ… Thành phố Vinh là nơi đi đầu, khởi nguồn của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, là một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước nếu tính từ ngày 10/12/1927 chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương nhập 3 thị xã làm một, ra đời một cấp hành chính cao hơn đó là thành phố Vinh  - Bến Thủy. Trên khu đất dài gần 5 km của đô thị Vinh bây giờ có khoảng 20 nhà máy, công xưởng. Riêng nhà máy xe lửa Trường Thi thu hút hơn 4.000 công nhân… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thành phố Vinh vừa là hậu phương lại vừa là tuyến đầu của cuộc kháng chiến kiến quốc. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp nhân dân thành phố Vinh đã quyết tâm tiêu thổ kháng chiến để làm vùng hậu phương chiến lược an toàn. Công nhân cùng các giới đồng bào đã tự phá hoại thành phố của mình đưa máy móc lên rừng núi để sản xuất vũ khí và các nhu yếu phẩm phục vụ bộ đội. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước tính từ trận đánh không quân Mỹ ngày 5/8/1964 trên đất thành phố Vinh đến ngày 15/1/1973 Nghệ An trong đó có Vinh đã bắn rơi 553 máy bay và bắn chìm 36 tàu chiến của Mỹ… Thành phố Vinh là thành phố anh hùng. Anh hùng bởi hiếm có địa danh nào trên cả nước lại có nhiều đơn vị cá nhân được tặng danh hiệu cao quý anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trên diện tích 1km2 (xung quanh phà Bến Thủy) có phà Bến Thủy 2 lần anh hùng, nhà máy điện Vinh, phường Bến Thủy, phường Hưng Dũng… Thành phố Vinh là thành phố trẻ. Trẻ bởi được quy hoạch lại, xây dựng lại từ đầu sau khi nước nhà được thống nhất. Từ đống tro tàn trong chiến tranh nay thành phố Vinh đã trở thành một thành phố năng động...

Thành phố Vinh sẽ trở thành thành phố chứa trong đó đô thị biển Cửa Lò sau này khi thực hiện xong quy hoạch mới.

Thành phố thông thương đến các nước trên thế giới.

Thành phố Vinh - Thành phố của bình minh - thành phố của tương lai" (Thành phố Vinh vùng đất địa linh nhân kiệt - Dương Hồng). 

2. Các tác phẩm văn học trong Ngữ văn địa phương thành phố Vinh đã ánh lên vẻ đẹp về tâm hồn của người Nghệ xưa và nay. Chùm ca dao sau đây được đưa vào chương trình Ngữ văn thành phố Vinh đã bộc lộ niềm kiêu hãnh, tự hào của người Nghệ đối với quê hương xứ sở của mình: 

"Núi Hồng ai đắp mà cao

Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu"

"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ"

" Cất công đến chốn Nghệ An

Chợ Vinh chưa đến, ruột gan chưa đành". 

3. Bằng việc đưa vào chương trình một số tác phẩm "Gạch vụn thành Vinh" của Thạch Quỳ, "Cô gái bán vé phà" của Nguyễn Trọng Oánh, "Tiếng Nghệ" của Nguyễn Bùi Vợi  và một số trích đoạn ví, giặm Nghệ - Tĩnh quen thuộc đã được người Nghệ và nhân dân cả nước yêu thích;  Chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh một lần nữa khẳng định  những tình cảm, phẩm chất tốt đẹp và nhân cách riêng của người Nghệ: Con người xứ Nghệ giàu tình nghĩa, cần cù, chịu khó trong lao động, yêu thương và trân trọng con người hết mực yêu nước, dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bộc trực thẳng thắn, cao thượng trong ứng xử và giàu tài năng sáng tạo nên đã mạnh mẽ vượt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đã tạo dựng nên một vùng văn hóa có bản sắc riêng đó là dân ca ví, giặm. Ví giặm Nghệ - Tĩnh đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đồng thời các bài học trong chương trình Ngữ văn địa phương còn đặt ra trách nhiệm cho các thế hệ người Nghệ trong đó học sinh THCS là phải có trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa của cha ông để lại. 

4. Lòng kính yêu lãnh tụ, một tình cảm cao quý, một nét tính cách nổi bật của người Nghệ đã được người soạn chương trình đưa vào vị trí đặc biệt trong tài liệu Ngữ văn địa phương thành phố Vinh với ghi chép "Quảng trường Hồ Chí Minh điểm nhấn của thành phố đỏ" của tác giả T.B. Bài viết chính là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ, của nhân thành phố Vinh thể hiện tấm lòng kính yêu của nhân dân Nghệ An và của nhân dân cả nước đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

5. Có một nét tính cách khá nổi bật của người dân sống trên đô thị Vinh  là  dân Vinh chủ yếu là người thôn quê lên làm việc và ở lại với phố. Mặc dù họ đã là dân thành phố lâu năm nhưng tấm lòng, tình cảm của họ luôn gắn bó với làng quê nơi trước đây họ đã sinh ra. Người thành phố không bao giờ quên nơi chôn rau cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Thị Phước trong bài thơ "Những sợi rơm trên phố" được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh nói hộ nỗi lòng và tình cảm đã nêu ở trên của họ:

    Tôi nhìn rơm đã khác chưa

    Có như ngày ta còn nghèo khổ

    Rơm ấm nên quây thành tổ ổ

    Ngày rơm đưa ta đến trường

   Chiếc mũ ổ rơm không còn

   Mấy mươi mà thành chuyện cổ

   Mặc cho ai quên ai nhớ

   Rơm vẫn thơm vàng đời rơm.

(Những sợi rơm trên phố - Nguyễn Thị Phước).

6. Nét nổi bật khác cần kể tới trong chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh, người biên soạn chương trình còn chọn một số phóng sự và tạp văn còn nóng hổi tính thời sự: "Cháo lươn thành Vinh" của các tác giả C.B và T.H, "Thức dậy tiềm năng du lịch Hưng Hòa" của Nguyễn Thị Quỳnh Phương, lời bài hát "Vinh - Thành phố bình minh" của nhạc sỹ Lê Hàm đưa vào chương trình dạy học để ngợi ca tính năng động của những con người đang lao động sáng tạo trong cách nghĩ cách làm để phát triển kinh tế văn hóa đưa Vinh tiếp tục bước vào một chặng đường phát triển mới.

7. Một nét mới khá nổi bật của chương trình môn Ngữ văn thành phố Vinh  mà các huyện khác chưa thực hiện được là người biên soạn đã chọn được một tác phẩm khá hay nói về tình hữu nghị gắn bó giữa Nghệ An và nước Cộng hòa dân chủ Đức đó là bài thơ "Vinh có thêm anh" của Lê Duy Phương. Bài thơ đã tạo thêm một dấu ấn về nhân cách của người Nghệ An là biết nâng niu quý trọng tình hữu nghị giữa các dân tộc và ở thời điểm này Vinh đã bước vào hội nhập quốc tế:   

Vinh của tôi lại có thêm anh

Người anh em đồng chí

Những sáng long lanh những chiều bình dị 

Xe anh đi về trong luồng xe chúng tôi

Không nói hết những gì ta gắn bó

Giữa chằng chịt hố bom và máu đổ

Anh cùng tôi gặp gỡ giữa đất này

Những nét hình kiến tạo buổi mai nay

(Vinh có thêm anh - Lê Duy Phương)

Hai khổ thơ trên đã khắc ghi tình cảm gắn bó của đoàn chuyên gia nước Cộng hòa dân chủ Đức với nhân dân thành phố Vinh trong những ngày đầu xây dựng lại thành phố Vinh. Thời kỳ người Nghệ bước vào hội nhập quốc tế đón nhận sự đầu tư giúp đỡ của quốc tế.

Trên đây chúng tôi đã trao đổi một số nét về con người Nghệ An trong chương trình môn Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh. Chúng tôi mong rằng bước vào chặng đường thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong đó có nhiệm vụ thực hiện giảng dạy chương trình địa phương cho các cấp học ở phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12 (Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2018), Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An sẽ tổ chức biên soạn được một bộ chương trình địa phương có chất lượng hơn cho các môn học địa phương (theo hướng tích hợp hoặc độc lập các nội dung Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Du lịch, Kinh tế cho các nhà trường đáp ứng tốt hơn cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế  theo tinh thần Nghị quyết 29 của TW Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo

Nguyễn Khắc An

Tính cách Nghệ chưa bao giờ là một đề tài hết thú vị cho dù đến thời điểm này thì nó không còn là câu chuyện mới mẻ nữa. Người ta đề cập đến nó, trăn trở với nó cả trăm năm nay rồi nhưng cứ mỗi lần chạm đến thì dường như lại có một phát hiện mới được công bố. Tính cách Nghệ là gì? Hình thù nó như thế nào? Đâu là ưu và cái gì là nhược? Nguồn gốc và cơ sở hình thành tính cách Nghệ? Tất cả dường như đã được nhận diện và lần lượt gọi tên. Có thể khẳng định các thế hệ học giả nhiều tài ba và giàu tâm huyết trong quá khứ đã ưu ái lưu lại nguồn tư liệu đủ đồ sộ để những người có bổn phận kế thừa và kết nối như chúng ta được tiếp cận hệ thống hơn, đầy đủ hơn, khoa học hơn về con người xứ Nghệ.

Trong khuôn khổ giới hạn dung lượng một bài viết, với tư cách là một người Nghệ "chính hãng" tôi xin phép đề cập đôi điều về tính cách Nghệ. Trên cơ sở đó, với tinh thần "gạn đục khơi trong" xin được mạnh dạn bộc bạch một vài suy nghĩ cá nhân nhằm góp thêm tiếng nói của người trong cuộc cho những khát vọng hội nhập và phát triển vẫn muôn đời đau đáu trong mỗi con người xứ Nghệ.

Người Nghệ lắm "tài" nhưng cũng nhiều "tật"

Một điều khá thú vị là hầu hết những nhận xét về tính cách Nghệ đều có đặc điểm chung, đó là rất hay và rất… không sai. Cách đây những 200 năm Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828), người từng làm Đốc học Nghệ An cho rằng, giới tinh hoa của xứ Nghệ "lấy danh tiết làm trọng". Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam từng đặt vấn đề "nói đến xứ Nghệ, điều trước tiên không thể không nhắc tới là con người, một biểu hiện độc đáo và gây ấn tượng nhất" (Ngô Đức Thịnh, 2009; tr.194); Học giả Đặng Thai Mai thì viết: "Người Nghệ can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến "cá gỗ" (Đặng Thai Mai, 1960, tr.37). Không chỉ những nhà nghiên cứu, mà cả những vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng từng đưa ra những đánh giá thú vị về người Nghệ như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn thừa nhận: "Có lẽ những người thông minh nhất và sâu sắc nhất thì Nghệ Tĩnh này là một nơi trung tâm". Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng khẳng định: "Con người Nghệ Tĩnh là vốn quý nhất của địa phương và của cả nước". Ngoài ra các học giả như GS. Phong Lê, GS. Vũ Ngọc Khánh, Nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh… cũng có những kết luận khá tương đồng.

Người Nghệ hiển nhiên có cái chất của người Nghệ. Sự khắc nghiệt của gió Lào, cát trắng, của mưa chẳng thuận, gió chẳng hòa, mùa đông sương buốt giá, mùa hạ nắng cháy da… đã mặc nhiên tôi rèn cho người Nghệ một khả năng thích ứng diệu kỳ. Người Nghệ đủ năng lực nội sinh để chịu đựng mọi phong ba bão táp, đủ mạnh mẽ để chống chọi kiểm soát và chi phối phần nào sự khắc nghiệt ấy. Trưởng thành ngay từ vùng lõi cực đoan của khí hậu, sự cấu kết cộng đồng mặc nhiên được hình thành, ý chí vươn lên được thiết lập, trở thành ngọn nguồn của tinh thần đoàn kết, chịu khó, siêng năng, hiếu học, can trường, bộc trực… Chính những tố chất ấy đã tạo nên những lớp lớp thế hệ người Nghệ siêng năng, cần cù trong lao động, bộc trực, hài hước trong giao tiếp, gắn bó đoàn kết với cộng đồng và dũng cảm kiên cường nơi chiến trận. Những nhẹ nhàng ngọt ngào, những điềm đạm, những kiềm chế cảm xúc, những kín đáo... có vẻ như khá xa lạ với người Nghệ. Ở đâu người Nghệ cũng dễ để được nhận ra không chỉ từ giọng nói mà nhận ra chính bằng những ưu điểm và thế mạnh của quê mình. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng cho thấy nhiều thời đại người Nghệ là nơi lựa chọn chiêu mộ binh sĩ. Trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh người Nghệ rầm rập đứng lên với khí phách "Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước/ Nọ Thanh Chương tiếp bước đi lên/ Nam Đàn Nghi Lộc Hưng Nguyên/ Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi…" (Bài ca cách mạng). Trong chiến tranh, có thể kể tên hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn người con xứ Nghệ tiên phong trên mọi mặt trận. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thì những trận đánh của "lính Nghệ" bao giờ cũng làm cho kẻ thù khiếp sợ. Lính Nghệ đã ra trận là với tinh thần "chết cũng mần" (câu nói của Cù Chính Lan, Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu Nghệ An - Anh hùng diệt xe tăng). Về ưu điểm người Nghệ nổi tiếng thông minh, hiếu học, tự tin, cần cù, chịu khó, chịu khổ, hào sảng, khảng khái, đàng hoàng, trọng danh dự, mộc mạc, chân thành, đoàn kết, tình nghĩa, tiết kiệm, dũng cảm can trường, dí dỏm hài hước.

Bên cạnh ưu điểm thì người Nghệ cũng tồn tại không ít những nhược điểm: Tự cao tự mãn, tùy tiện, vô kỷ luật, cục bộ theo kiểu làng xã, nóng nảy đến thô lỗ, sĩ diện đến hão huyền, bảo thủ đến quẫn trí, tằn tiện đến keo kiệt, quyết liệt đến cực đoan, ganh đua đến kèn cựa, cứng nhắc đến gàn dở… "Con cá gỗ" không chỉ đơn thuần là biểu tượng về sự tằn tiện, tinh thần hiếu học mà con cá gỗ ít nhiều cũng chứa đựng cái bệnh sĩ diện của người Nghệ. Đã có giai đoạn các doanh nghiệp trong nước từ chối tuyển dụng người Nghệ, thậm chí ngay cả đi xuất khẩu lao động thì một số công ty nước ngoài ở Nhật Bản cũng không mặn mà với lao động Nghệ. Nhược điểm của người Nghệ đã có lúc trừng phạt người Nghệ. Cũng may mà người Nghệ đã mau chóng nhận ra và cũng cầu thị điều chỉnh.

Nhân đây cũng xin nói thêm một chút về cái "choa" của người Nghệ. Người Nghệ thích dùng chữ "choa". Ai đó từng "dịch" choa ra thành "chúng tôi". Về mặt ngữ pháp (ngôi thứ nhất số nhiều) có thể là tương thích, nhưng thiết nghĩ choa không đơn thuần là thay cho từ "chúng tôi". "Choa" là phương ngữ thể hiện sự đoàn kết, tự tin nhưng công bằng mà nói "Choa" cũng có hàm ý gì đó cục bộ, tự cao, ta đây và bảo thủ… Thành công thì vỗ ngực "choa phải rứa" thất bại thì phủi tay "choa chỉ đến đó thôi". Thời buổi hội nhập mà đụng đến cái gì cũng "kệ choa" thì coi như đã tự mình khép cửa. Giá như người Nghệ bớt cái "choa" đi một chút.

Người Nghệ đang phát "tài" nhưng cần tiếp tục sửa "tật"

Là một người Nghệ lại bàn chuyện gạn đục khơi trong cho người Nghệ quả thực khó. Sợ nhất là chính cái chất Nghệ thâm căn cố hữu trong mình sẽ không cho mình bươn ra khỏi sự bủa vây của nền tảng bảo thủ để chạm vào miền thông thoát. Người bảo thủ là người không nhận ra mình bảo thủ. Khi viết bài này tôi đã cố gắng lựa ra những phẩm chất người Nghệ đã được các thế hệ đúc rút rồi đem đối chiếu với tính cách chung của người Việt thì bất chợt nhận ra cái phẩm chất tốt đẹp của người Nghệ cũng là cái phẩm chất tốt đẹp của người Việt, cái nhược điểm của người Nghệ cũng là cái nhược điểm chung. Chỉ có điều người Nghệ cực đoan hơn nên biểu hiện nó ra ngoài "sắc nét" rõ ràng và mạnh mẽ hơn dẫn đến dễ nhận diện hơn.

Công bằng mà nói người Nghệ thế kỷ XXI đã rất khác. Ngày nay hình như ở đâu trên cái hành tinh xinh đẹp và nhộn nhịp này cũng có cộng đồng người Nghệ. "Nghệ Kiều" đã tiếp cận, lĩnh hội và thâm nhập nhanh với thế giới bên ngoài, và chính họ đóng vai trò như những con thoi trong việc giao thoa văn hóa. Bên cạnh đó người Nghệ kỷ nguyên        internet ngày nay được thụ hưởng những thành tựu tuyệt vời của công nghệ thông tin. Đứng đầu phải kể đến mạng xã hội, chính nó đang xóa dần đi những cách biệt cũng như khác biệt giữa con người với con người. Người Nghệ ngày nay không còn quá bảo thủ, người Nghệ đã chủ động tiếp cận, chấp nhận với bên ngoài, nhất là với môi trường lao động công nghiệp. Người Nghệ không còn "chặt to kho mặn" họ nhận ra những nhược điểm trong tính cách của mình để điều chỉnh phù hợp nhằm tương thích với không gian mở đầy năng động. Với lợi thế thông minh và ham học hỏi người Nghệ đâu có lề mề trong hội nhập, ít nhất là trên không gian mạng. Với thời đại công nghệ thì việc hội nhập chưa hẳn là khó khăn hơn việc bảo tồn. Cũng có ý kiến cho rằng người Nghệ giỏi nghiên bút chứ nhảy vào kinh tế là tụt hậu. Nói thế nếu đúng thì cũng chỉ "một vạt" nào đó thôi. Những tên tuổi lẫy lừng như chủ Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Mường Thanh hay Tập đoàn TH đều là dân gốc Nghệ cả đấy chứ.

Chỉ tính riêng Thủ đô Hà Nội thì người gốc Nghệ đang sinh sống và làm việc rất có thể đã lên tới con số hàng trăm ngàn. Họ là những tế bào sống động góp phần trung hòa những nhược điểm của tính cách Nghệ. Không chỉ Hà Nội, mà cả TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Tây Nguyên… ở đâu thì "tế bào" Nghệ cũng đã được "cấy" vào để hội nhập cả. Tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự chuyển biến tích cực trong tính cách Nghệ. Chất Nghệ mãi mãi còn nhưng chắc chắn chất Nghệ sẽ không được phép xung đột với lợi ích Nghệ.

Cần tạo cơ hội cho thế hệ trẻ xứ Nghệ được cống hiến cho quê hương. Năm 2020 trong đoàn học sinh Việt Nam đi tham dự Olympic quốc tế có 28 người thì xứ Nghệ chiếm đến 12 người. Nếu không tính TP Hồ Chí Minh thì từ Quảng Bình cho đến tận Mũi Cà Mau cũng chỉ vỏn vẹn duy nhất 1 người. Người ta đặt câu hỏi tại sao xuất sắc đến thế mà xứ Nghệ vẫn nghèo? Người Nghệ giỏi thì không cần phải bàn cãi nữa. Người Nghệ rất chịu khó chinh phục… khoa bảng. Người Nghệ hiếu học, khi học rồi thì rất hiếu thi, khi đi thi rất hiếu thắng, và khi thắng được rồi thì rất ít… quay trở về quê nhà. Cách đây mấy tháng một học sinh trường chuyên vô địch cuộc thi đường lên đỉnh Olympia đã lấy nước mắt biết bao nhiêu người không chỉ vì thành tích và nghị lực tuyệt vời của em ấy mà còn vì câu nói rưng rưng rằng "Em xin hứa rằng sau này du học xong em sẽ về với quê hương". Vài chục năm lại nay dân Nghệ truyền miệng câu chế "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ/ Ai vô xứ Nghệ thì vô/ Còn choa vẫn ở thủ đô lâu dài". Vì sao vậy? Họ tin rằng nơi có điều kiện hoàn hảo hơn thì phẩm chất tốt đẹp xứ Nghệ sẽ được phát huy tốt hơn. Cũng có người cho rằng trong "thế giới phẳng" thì không cứ nhất thiết phải về quê mới cống hiến được cho quê. Đã thành đạt thì bất cứ ở đâu trên địa cầu này người Nghệ cũng có thể mang lại hồng phúc cho xứ Nghệ.  Vâng, về mặt lý thuyết thì điều ấy hoàn toàn đúng, nhưng thực tế mấy mươi năm qua thì cái sự đúng ấy lại chưa được chứng minh rõ ràng. Nói "chảy máu chất xám" thì e không phải, nhưng nói khai thác triệt để chất xám cũng không. Nhiều bạn trẻ học hành xong thì cố chày cối tìm cách bám vào một cơ quan nhà nước nào đó để "ổn định đồng lương", cần triệt tiêu lối suy nghĩ "ăn đói nằm co hơn ăn no vác nặng" còn sót lại của một bộ phận người Nghệ. Thế hệ trẻ xứ Nghệ cần phải hiên ngang dấn thân vào khởi nghiệp. Đó là điều cần phải làm, đó là thứ cần thay đổi.

Đã hơn 50 năm, chúng ta còn mang món nợ "quá hạn" với Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Sớm xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh khá nhất miền Bắc" (Bức thư cuối cùng Bác gửi cho tỉnh nhà). Nợ với Bác nhưng thực ra là nợ với đồng bào. Ai nói "Ri là khá rồi" là một kiểu tư duy vừa rất Nghệ mà cũng vừa rất… tệ. Bi kịch không phải là sự thất bại trước mục tiêu lớn mà chính là sự thỏa mãn với mục tiêu nhỏ. Người Nghệ muốn thay đổi dứt khoát phải đoạn tuyệt với lối tư duy tự thỏa mãn thái quá này.

Người Nghệ là người Nghệ, người Nghệ không nhất thiết phải là kẻ sĩ Bắc Hà hay Hai lúa miền Tây. Đừng tìm cách "thuần hóa" người Nghệ thành một phiên bản hoàn toàn khác. Điều đó hình như chống lại những nỗ lực bảo tồn bản sắc vùng miền và cũng ngược với quy luật hình thành và phát triển. Vấn đề là người Nghệ nên "dùng" cái chất Nghệ của mình ở đâu? Với ai và liều lượng lượng thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất. Không để chất Nghệ bị hắt hủi cũng đừng tự phế truất mình ra khỏi cộng đồng "phổ thông" vì chất Nghệ! Để tăng cường hội nhập người Nghệ cần có những tiết chế, trung hòa môi trường giao tiếp, hạn chế nhược điểm mang tính rào cản. Trong rất nhiều giải pháp để sớm đưa Nghệ An trở thành tỉnh khá xin đừng bỏ ra ngoài việc khắc phục những nhược điểm của tính cách Nghệ. Đành rằng việc này đòi hỏi cần có thời gian. Vấn đề đặt ra là thay đổi gì và thay đổi như thế nào? Quá trình hình thành tính cách Nghệ có yếu tố tự nhiên như địa hình, khí hậu… nhưng đây là những cái không thể thay đổi ít nhất là trong tương lai gần. Chỉ còn có cách là thay đổi con người thôi. Người Nghệ không cần phải vứt bỏ hay lột xác gì cả. Chỉ cần người Nghệ biết nhận diện ưu nhược điểm của mình để tự mình tiết chế nó. Cố gắng đừng để ưu điểm phát triển cực đoan đến mức lệch lạc để rồi lại trở thành nhược điểm. Người Nghệ cần tiết chế nhiều thứ nhưng nếu có thể thì hãy "ngay và luôn" 3 thứ: Trước hết cần phải biết khắt khe với chính mình. Chính bệnh cẩu thả, xuề xoa, phiên phiến của người Nghệ đã làm hại người Nghệ. Cái thứ hai người Nghệ cần tiết chế đó chính là thói bảo thủ. Bảo thủ là rào cản đầu tiên và kiên cố nhất để ngăn người Nghệ hội nhập. Khai thông được điểm nghẽn bảo thủ thì người Nghệ mới có cơ hội tiếp cận với các giá trị tiến bộ khác. Cái thứ ba người Nghệ cần phải nhận ra và điều chỉnh chính là lối làm việc duy tình. Chính cảm xúc đang triệt tiêu hàm lượng khoa học trong quá trình xử lý công việc của người Nghệ. Thay đổi được ngần ấy nó sẽ kéo theo sự thay đổi khác.

Không ai có thể giúp người Nghệ bằng chính người Nghệ. Đầu tiên là cá nhân mỗi một người dân xứ Nghệ đều có bổn phận, sau đó là gia đình và cộng đồng xã hội. Câu chuyện gạn đục khơi trong tính cách Nghệ cần phải được kích hoạt mọi nơi mọi lúc mà hệ thống chính trị không thể đứng ngoài cuộc. Gọi đúng bệnh rồi thì hãy bốc thuốc để chữa trị nó. Những thay đổi tính cách Nghệ tích cực gần đây chủ yếu là xu hướng chung của xã hội. Sự tác động có chủ đích của các cấp các ngành vẫn quá ít và mơ hồ. Trường học và cả truyền thông dường như đang bỏ quên mặt trận quan trọng này.

Tài nguyên của xứ Nghệ không phải là núi rừng hay biển cả mà chính là con người. Chúng ta cần phải xây dựng một chiến lược căn cơ nhằm phát triển phẩm chất con người xứ Nghệ. Nên có một bộ tiêu chuẩn "người Nghệ" để tham chiếu. Hãy tạo cú hích thẳng vào những lô cốt tư tưởng cổ hủ. Hãy thổi vào thế hệ trẻ lòng tự hào, trách nhiệm với xứ sở và tinh thần hòa nhập để đổi mới. Người Nghệ thông minh, người Nghệ cần cù, người Nghệ can trường dũng cảm… thì hà cớ gì mà người Nghệ lại không "khá nhất"? Phải thay đổi, và chỉ có thay đổi. Tuy nhiên xin đừng nhầm lẫn giữa thay đổi gạn đục khơi trong với việc hủy hoại tính cách Nghệ. Chúng ta không khai tử nó, chúng ta làm cho mọi cái tốt lên mà thôi.

 

Huy Khánh

Thanh Chương là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng. Truyền thống đó được lớp lớp thế hệ các cha anh gây dựng, vun đắp và gìn giữ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nhiều dòng họ, với hàng trăm tên tuổi lừng danh non sông đất Việt như: Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, Đinh Bộ Cương, Nguyễn Cảnh Quế, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa, Đặng Quỳnh Anh, Nguyễn Sĩ Sách, Tôn Quang Phiệt, Tôn Thị Quế, Tôn Gia Tĩnh, Nguyễn Côn, Võ Thúc Đồng, Lê Nam Thắng, Dương Văn Dật, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Đình Cầu, Trần Đình Hượu, Nguyễn Duy Qúy, Nguyễn Tài Tuệ, Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Hữu Toản, Đặng Đình Hồ, Nguyễn Ngọc Độ, Hoàng Đình Kiền, Nguyễn Ngọc Lài.v.v.. gia tộc Trần Hưng; Nguyễn Sỹ… Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược một số danh nhân, dòng tộc đại diện cho một số thời kỳ trong lịch sử cách mạng dân tộc góp phần làm rạng danh vùng đất Thanh Chương, xứ Nghệ.

1. Nguyễn Cảnh Quế (1599 - 1658) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng giữ chức Tả đô đốc Phó tướng, Phò mã Đô úy tước Liêu quận công. Tổ tiên người xã Ngọc Sơn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Ông là đời thứ 8 của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An kể từ nguyên tổ Nguyễn Cảnh Lữ.

Nguyễn Cảnh Quế xuất thân trong gia đình nhiều đời làm tướng thời Lê trung hưng. Cha là Thiếu phó Tả Tư mã Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà, mẹ người họ Phạm con gái của Lai quận công Phạm Trà người huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa.

Tổ tiên ông sinh sống chủ yếu ở huyện Nam Đường nhưng do nhiều năm trấn thủ Hoan Châu, đại bản doanh ở huyện Chân Phúc (nay là thị xã Cửa Lò), cho nên ông sống ở đây cho đến khi qua đời.

Nguyễn Cảnh Quế xuất thân từ gia đình nhà võ, theo cha đánh trận và từng là thuộc tướng của cha, Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà. Năm 1626 tàn dư họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, triều đình cử Thanh đô vương Trịnh Tráng cầm quân đánh dẹp, Nguyễn Cảnh Hà cùng con Nguyễn Cảnh Quế trong trận này dùng kế hỏa công nên lập được công lớn. Cảnh Quế được phong Lộc nghĩa hầu và được chúa Trịnh Tráng gả con gái Trịnh Thị Ngọc Loan.

Năm 1630 ở Hoan Châu có tên Hiền Thuấn nổi lên quấy nhiễu nhân dân, thường áp sát, uy hiếp quan phủ nên triều đình cử Nguyễn Cảnh Quế đem quân về dẹp loạn. Ông kéo quân đến đóng tổng hành dinh ở Chân Phúc (nay thuộc Nghi Lộc), sau đó tiến hành xây dựng hào lũy, vừa đánh vừa kêu gọi đầu hàng, đánh tan đảng giặc, Hiền Thuấn bị bắt sống, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Với chiến công này ông được phong Tả đô đốc, Phó tướng, Liêu quận công, và được cử ở lại trấn thủ Hoan Châu.

Năm 1630 đến 1658 ông làm trấn thủ Hoan Châu địa phận từ huyện Quỳnh Lưu ngày nay đến sát Đèo Ngang (nay là Kỳ Anh thuộc Hà Tĩnh). Trong thời gian này ông tổ chức nhân dân mở đường, xây dựng kênh mương thủy lợi (nạo vét và đào thêm kênh nhà Lê), mở mang nông nghiệp, chiêu dân lập ấp, ngăn chặn giặc Tàu Ô xâm lấn, quấy nhiễu. Biên cương được giữ vững.

Trong thời gian trấn thủ Hoan Châu ông còn nhiều lần vâng mệnh triều đình, theo chúa Trịnh mang quân đánh dẹp tàn dư họ Mạc ở phía Bắc, quân chúa Nguyễn ở phía Nam.

Cuối năm Đinh Dậu 1657 ông lâm bệnh nặng, tạ thế ngày 18 tháng 1 năm Mậu Tuất 1658. Về sau ông được truy phong là Thượng tướng quân, Trung quân, Tả Đô đốc, Phò mã, Đô úy, Liêu quận công.

Phần mộ của ông được an táng tại xứ Cồn Nương, xã Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là thôn Khánh Thịnh, xã Nghi Khánh, huyện Nghi Lộc, Nghệ An.

Để tưởng nhớ công lao của ông với đất nước, ông được phối thờ cùng cố nội Nguyễn Cảnh Hoan tại xã Tràng Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An. Ngoài ra còn nhiều đền thờ, phối thờ ông như đền Cửa tại xã Nghi Khánh, Nghi Lộc... Hiện nay tại thị xã Cửa Lò có một con đường mang tên ông.

2. Gia tộc Trần Hưng ở Thanh Xuân (Thanh Chương - Nghệ An)

Gia tộc Trần Hưng có nguồn gốc từ đất Bắc, đến định cư vùng Bắc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh và Nam huyện Thanh Chương, Nghệ An từ thời Hậu Trần. Đến thế kỷ XVII, dòng họ Trần Hưng nổi lên với những nhân vật có tầm vóc lịch sử: Trần Văn Cảnh, Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng và Trần Hưng Thi. Tên tuổi của các vị không chỉ là niềm tự hào của gia tộc mà còn là niềm tự hào của quê hương xứ sở.

Người khơi nguồn, tạo gốc cho gia tộc Trần Hưng ở Thanh Xuân là cụ Trần Văn Cảnh (1585 -1655). Trong Bia hậu thần có ghi lại rằng, cụ là người "phong tư cao rộng, hình dáng khôi ngô, sức khỏe hơn người, văn võ tinh thông, làm bóng che của cây cao, góp gang tấc cho ánh sáng..., lấy trung, tín, nhân hậu làm gốc để giữ mình, làm khuôn phép cho gia tộc, chứa điều thiện trong mình, nhà có thừa phúc đức". Cụ từng giữ chức Cẩm Y vệ, Đô Chỉ huy sứ đời Lê Thần Tôn (1623), có công với triều đình và nhân dân. Sau khi cụ mất, nhân dân Bích Triều và các vùng lân cận tôn cụ là Thành Hoàng, khắc bia ghi nhớ công ơn và tôn kính thờ phụng. Cụ Trần Văn Cảnh sinh được 6 người con trai, trong đó có 3 người con nổi tiếng thông minh, mưu lược, chí khí hơn người. Đó là Trần Hưng Học sinh năm Tân Mùi, Trần Hưng Nhượng sinh năm Ất Hợi, Trần Hưng Thi sinh năm Mậu Dần (?). Được thừa hưởng tài năng, đức độ của người cha đáng kính, từ nhỏ ba anh em đều say mê học hành, khổ công rèn luyện, sớm có lòng yêu nước thương dân, trọng nghĩa khí, quyết chí phò vua giúp nước. Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước triền miên trong chiến tranh loạn lạc, những người con của gia tộc Trần Hưng đã tập hợp được hàng trăm trai tráng, luyện tập võ nghệ, tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực để bảo vệ quê hương. Năm 1655, chúa Nguyễn bành trướng ra Bắc, đem quân đánh chiếm các vùng đất Bố Chánh, Hoành Sơn, các cửa biển Kỳ La, Nam Giới và các huyện phía Nam sông Lam như Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương. Đi đến đâu, quân nhà Nguyễn cướp bóc đến đó khiến cho cuộc sống của nhân dân vô cùng điêu đứng. Căm phẫn trước những hành động bạo ngược của quan quân nhà Nguyễn, Trần Hưng Học cùng các em trai của mình đã chỉ huy nghĩa quân bí mật bất ngờ đánh úp tiêu diệt các đồn lẻ dọc sông Lam. Được sự giúp đỡ che chở của nhân dân, nhờ thông thạo địa hình rừng núi hiểm trở và tài thao lược, nghĩa quân càng đánh càng mạnh, thanh thế ngày càng lớn. Chiến công và thanh thế của nghĩa quân làm nức lòng nhân dân và làm cho tướng lĩnh của vua Lê, chúa Trịnh rất cảm phục. Họ đã tiếp kiến anh em Trần Hưng Học và hợp đồng với nghĩa quân để giải phóng vùng đất bị quân Nguyễn chiếm đóng. Đội nghĩa binh của ba anh em Trần Hưng Học luôn luôn được cử làm đội tiên phong, vừa trinh sát, vừa làm nội ứng, kịp thời đưa ra những phương án chuẩn xác góp sức cùng đại quân của triều đình giải phóng toàn bộ vùng đất bị quân chúa Nguyễn chiếm đóng từ phía Nam sông Lam đến Hoành Sơn. Từ đó nhân dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thoát nạn binh lửa, yên ổn làm ăn, cuộc sống thanh bình trở lại. Anh em Trần Hưng Học cùng đội nghĩa binh được giao nhiệm vụ trấn giữ vùng giới tuyến phía Nam. Ghi nhận công lao to lớn của ba anh em Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng, Trần Hưng Thi, vua Lê đã ban sắc phong thăng chức và trọng thưởng. Trần Hưng Học giữ chức Thự vệ, Trần Hưng Nhượng giữ chức Tá hiệu điền, Trần Hưng Thi giữ chức Chỉ huy thiêm sự.

Trong suốt thời gian cai quản vùng giới tuyến, anh em Trần Hưng Học đã làm hết sức mình để đưa lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân, giúp nhân dân làm ăn thịnh vượng. Trong lúc nhiều dự định tốt đẹp đang ấp ủ, Trần Hưng Học không may lâm bệnh nặng và từ trần lúc mới 43 tuổi. Nhân dân và quân sĩ vô cùng thương tiếc vị dũng tướng tài ba đức độ quên mình vì nghĩa lớn. Vua Lê ban sắc phong truy tặng ông tước Nhuận quận công đại vương tôn thần.

Vùng biên giới phía Bắc tạm yên, thì bọn giặc biển lại nổi lên phía Đông Bắc, vua Lê lại cử Trần Hưng Nhượng đi dẹp giặc. Chỉ trong vòng 4 tháng dưới sự chỉ huy của Tham đốc tướng quân Trần Hưng Nhượng, bọn giặc bị dẹp tan, bờ cõi được giữ yên. Không những là vị tướng tài ba, xông pha trận mạc Trần Hưng Nhượng còn có nhiều đóng góp chấn hưng kinh tế nước nhà. Ông chỉ huy khai cảng xứ Nghệ, khơi kênh nhà Lê, khai khẩn đất hoang phát triển kinh tế cho nhân dân. Mặc dù tuổi cao nhưng ông vẫn xông pha nơi biên ải và tạ thế nơi sơn phòng thọ 75 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua Lê đã gửi sắc phong ông chức Tả đô đốc và ban tước Trung quận công.

Người con trai út của cụ Trần Văn Cảnh, tên là Trần Văn Xạ, tự Hưng Thi, biết noi theo cha,  nuôi chí lớn, cùng hai người anh trai lập được nhiều công trạng, hai lần được vua Lê sắc phong. Sắc phong thứ nhất ghi ngày 26 tháng 9 niên hiệu Vĩnh Thọ năm thứ 3 (1660) đã ghi nhận Trần Hưng Thi "có công phục tùng mệnh lệnh phá được trận giặc. Nay triều thần bàn định đồng ý gia thăng chức Phó quản lĩnh, sắc phong Trần Hưng Thi là Kình tiết tướng quân, Phụng Thánh vệ Thiên định trung sở, Phó quản lĩnh, Triều Lan bá hạ trật".Hai năm sau, năm Vĩnh Thọ thứ 5 (1662), nhờ có công lớn trong khi tiến đánh giặc ở Thuận Quảng, Trần Hưng Thi tiếp tục được sắc phong: "Phụng chỉ Khâm sai Tiết chế thủy bộ chư doanh kiêm Thống chính binh Thái úy Nghi quốc công, Đại nguyên soái, Chưởng quốc chính Thượng sư Tây vương Trịnh Căn: xếp Trần Hưng Thi vào Tả khuông quân doanh Tiền hùng đội. Trần Hưng Thi là một bề tôi kiên trinh trọng nghĩa, khi tiến đánh giặc ở Thuận Quảng đã có công nhiều lần yểm kích, chém được đầu tướng giặc, thu được cờ mũ, ngựa tốt, khí giới. Triều thần bàn định, đồng ý gộp công gia thăng chức Chỉ huy thiêm sự, giữ nguyên tước cũ. Nay sắc thêm tước hiệu Kiệt trung tướng quân, Cẩm y vệ kỳ thủ, Chỉ huy sứ ty, Chỉ huy thiêm sự, Hiển Vinh bá, thiết kị úy hạ trật".

Một nhà mà có được bốn nhân vật tuấn kiệt như thế thật đáng trân trọng, tôn vinh. Vùng đất Bích Triều vốn là chốn sơn cước, bao bọc bởi sông núi hùng vĩ. Đông Bắc là dòng Lam giang cuồn cuộn nước, án ngự phía Đông Nam là dãy Hùng Lĩnh uốn lượn mình rồng, phía Tây là dãy Trường Sơn sừng sững. Phải chăng chốn địa linh này là nơi khởi sự của anh hùng hào kiệt, để tỏa sáng khắp vùng đất nước và lưu danh sử sách mai sau.

Để ghi nhớ công ơn của anh em gia tộc Trần Hưng, nhân dân vùng đất Bích Triều đã lập đền thờ Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng, Trần Hưng Thi ở xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Hiện nay ở ba đền thờ này còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá, ghi dấu công lao to lớn của các ông trong sự nghiệp bảo vệ và chấn hưng đất nước. Năm 1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa -Thông tin đã ký Quyết định công nhận đền thờ Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là niềm tự hào to lớn và là tài sản tinh thần vô giá của gia tộc Trần Hưng cũng như của nhân dân vùng đất Thanh Chương giàu truyền thống yêu nước.

3. Đinh Nhật Thận (1815-1866): (gia phả chép là Đinh Viết Thận) sinh năm Ất Hợi (1815), tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, tổng Cát Ngạn này là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Đinh Nhật Thận sinh ra trong một gia đình có 6 con trai và 1 con gái. Từ nhỏ Đinh Nhật Thận đã có dáng khôi ngô và sớm tỏ ra là người hiếu đễ, dáng người chắc khỏe, đôi mắt sáng, khuôn trán rộng… Tất cả tạo nên ở người thiếu niên này một gương mặt trầm tĩnh, biết chịu đựng nhưng không dễ gì chịu khuất phục. Trong sách "Trong 99 chóp núi" Nguyễn Văn Để đã viết về ông như sau: Thật trời đã khéo tây vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay.

Ông thi đỗ Cử nhân năm 1837, rồi đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất - Minh Mạng 19 (1858), được bổ làm tri phủ. Ông được làng cấp cho 5  mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Ở đó, ông để phần lớn ruộng của mình cho bà con cày cấy mà không thu một phần nào về hoa lợi. Ông còn cho tổ chức khai khẩn thêm và chiêu mộ người đến lập thành làng Gia Hội và ấp Thanh Liêu. Ông vui thú điền viên ở đó và lấy việc giao kết với bạn hữu gần xa làm trọng, là bạn với Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu. Ông bị triều đình bắt khi Cao Bá Quát khởi nghĩa chống triều đình và bị khép tội giam chờ xử trảm. May ông giỏi nghề thuốc chữa khỏi bệnh hiểm nghèo cho thân mẫu vua nên được tha, được phục chức nhưng ông từ chối không nhận.

Trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, lương y, nhà thơ Đinh Nhật Thận qua đời ở tuổi 52, nhưng sự nghiệp y học và thi ca của ông thì còn sống mãi với thời gian. Ông để lại tập thơ Bạch Mao Am thi loại (thơ thù ứng) và nổi tiếng với bài Thu dạ lữ hoài ngâm được làm khi bị tù đày. Bài thơ được đưa vào chương trình dạy học văn của nước nhà. Về Thanh Liêu, Cát Ngạn bao đời nay ta vẫn nghe câu ca: "Non sông Giăng, nước sông Giăng, trời sông Giăng, nhớ chăng, em "Thu dạ lữ hoài Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa".

4. Đặng Nguyên Cẩn (1866-1923): Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học và cách mạng, thân sinh là Đặng Thai Hài đỗ cử nhân, em trai là Tú tài Đặng Thúc Hứa và là thân phụ của học giả Đặng Thai Mai. Ông hiệu là Thai Sơn, người làng Lương Điền, tổng Bích Hào, nay là xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương. Lúc đi thi hương lấy tên là Đặng Thái Nhẫn, đỗ cử nhân khoa Mậu Tý, năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), đỗ Phó bảng khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1895), lúc này mang tên là Đặng Nguyên Cẩn. Trước khi đi thi ông đã là giáo thụ huyện Hưng Nguyên, đốc học Nghệ An, Bình Thuận. Là danh sĩ có tiếng về học vấn uyên bác, về văn thơ, nhất là trong cuộc vận động Duy Tân đầu thế kỷ. Năm 1908 trong phong trào chống thuế Trung kỳ ông bị thực dân Pháp bắt, dày đi Côn Đảo, bị tù 13 năm và được trả tự do năm 1921. 2 năm sau ông qua đời.

5. Đặng Thúc Hứa (1870-1931): Đặng Thúc Hứa (còn có tên là Đặng Ngọ Sinh) sinh năm 1870, ở làng Lương Điền, tổng Bích Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Xuân, Thanh Chương.

Đặng Thúc Hứa sinh ra trong gia đình yêu nước, cách mạng, từ nhỏ đã sớm có tư tưởng yêu nước, theo gương cha và không làm quan mà ban ngày đi phở trại, đêm về đọc tân thư; vận động nhân dân lập chợ, đắp đập, bắc cầu; hoạt động trong Ám xã.

Vào khoảng 1905-1906, Đặng Thúc Hứa tham gia Hội Duy Tân và được cử đi từ Nghệ An ra Bắc liên lạc với các cơ sở của Đề Thám; tham gia việc quyên góp tiền ủng hộ Đông Du.

Ông từng bôn ba hải ngoại, sang Trung Quốc, Thái Lan, đi khắp những nơi có kiều bào sống để cố kết họ hướng về tổ quốc, kiên trì xây dựng cơ sở trong kiều bào làm hậu cứ cho cách mạng; đồng thời chuyên tâm dạy dỗ thiếu niên để đào tạo lớp trẻ kế cận làm cách mạng giải phóng dân tộc sau này. Khi nghe tin ở Nghệ Tĩnh nổ ra Xô viết, ông cùng các đồng chí hoạt động cách mạng ở Thái Lan tiếp tục vận động Việt kiều ủng hộ phong trào đấu tranh của công nông Nghệ Tĩnh. Do hoạt động quá nhiều, phải chịu đựng nhiều gian khổ nên sức khỏe của Đặng Thúc Hứa bị giảm sút nhanh chóng và ngày 12/3/1931, ông đã từ giã cõi trần, thọ 61 tuổi.

Đặng Thúc Hứa là một chiến sĩ cách mạng đã bền bỉ phấn đấu trọn đời vì lý tưởng cứu nước, một trong những tấm gương kiên trung trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ.

6. Nguyễn Sỹ Sách (1905-1929): Nguyễn Sỹ Sách biệt hiệu là Kiếm Phong, sinh năm 1905, trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Tú Viên (nay là xã Thanh Lương), Thanh Chương, Nghệ An.

Nguyễn Sỹ Sách vốn là người thông minh, hiếu học, 11 tuổi đã đỗ đầu kỳ thi tuyển sinh, mười ba tuổi đỗ đầu kỳ thi tiểu học, mười bảy tuổi đỗ bằng thành chung khoa đầu trường trung học thành phố Vinh. Giữa năm 1924, Nguyễn Sỹ Sách được bổ dụng làm trợ giáo trường tiểu học Pháp - Việt thị xã Hà Tĩnh.

Tháng 7/1925, Nguyễn Sỹ Sách gia nhập hội Phục Việt, anh phụ trách việc xây dựng tổ chức và truyền bá tư tưởng yêu nước trong trường học.

Tháng 10 năm 1928, Nguyễn Sỹ Sách bị thực dân Pháp bắt giam. Bọn mật thám giải vào Huế, rồi đưa về Vinh. Không khai thác được gì, thực dân Pháp đành trả tự do.

Nguyễn Sỹ Sách là người dẫn đoàn đại biểu Trung kỳ sang Hương Cảng dự Đại hội Đại biểu Hội thanh niên, và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng bộ, đặc trách công tác trong nước. Thảo luận thành lập Đảng Cộng sản…

Tháng 7/1929, Nguyễn Sỹ Sách bị sa vào tay giặc, kết án khổ sai chung thân, đày vào giam ở nhà tù Lao Bảo. Trong tù Nguyễn Sỹ Sách đã bàn với các đồng chí cộng sản đấu tranh bằng các hình thức như: tuyệt thực, đưa ra 7 yêu sách. Trong lúc đấu tranh, Nguyễn Sỹ Sách đã bị bọn tay sai bắn chết. Nguyễn Sỹ Sách mất đi những tinh thần chiến đấu bất khuất của đồng chí đã cổ vũ anh em chiến sĩ cách mạng bị giam cầm lúc bấy giờ đấu tranh cho đến ngày thắng lợi.

7. Tôn Quang Phiệt (1900-1973)

Sinh ra trong một gia đình nho học, quê xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương. Tuổi nhỏ ông đã được cha sai hầu nước, trong những cuộc đàm đạo với bạn bè, các sĩ phu yêu nước. Được cha cho xuống thành phố Vinh xem học trò thi hương; và được học lớp đầu tiên của trường Quốc học Vinh vào năm 1920. Thái độ học tập nghiêm túc, tư thế đĩnh đạc Tôn Quang Phiệt được các thầy giáo, cũng như các bậc tiền bối rất xem trọng.

Ông từng tham gia thành lập Việt Nam nghĩa đoàn, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng rồi Đông Dương cộng sản liên đoàn…

Năm 1929, ông bị bắt và bị kết án ba năm tù treo; năm 1930, Tôn Quang Phiệt bị bắt lại và bị kết án 7 năm tù và đày đi Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian ở nhà tù Buôn Ma Thuột, ông và những người tù chính trị đã biến nhà tù thành trường học chính trị, thành nơi rèn luyện ý chí cách mạng. Trong tù ông đã sáng tác nhiều thơ, hịch, truyện thơ, phú… đặc biệt xuất bản nhiều cuốn sách lịch sử có giá trị. Tấm gương sáng của một người trí thức giàu lòng yêu nước, trung thành với cách mạng, với nhân dân, chiến đấu bền bỉ, đã không ngừng tự trau dồi và rèn luyện để đạt tiêu chuẩn người cách mạng chân chính. Ông có công lớn trong việc vận động vua Bảo Đại thoái vị, giao lại chính quyền cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ năm 1946 -1963, ông liên tục là Đại biểu Quốc hội, là Ủy viên ban dự thảo Hiến pháp, PTB thường trực, UVUBTV - kiêm TTKUB thường vụ QH; là Thanh tra UBKCLK4, CTUBKCHC tỉnh Thanh Hóa, PCTUBLVLK4; CT UB đoàn kết nhân dân Á Phi của VN, PHT Hội HN Việt - Trung, UVBCH Hội HN Việt - Xô, UVUB trung ương MTTQ Việt Nam… Ông mất năm 1973, thọ 73 tuổi. Những đóng góp và công lao của ông được đảng và nhà nước ghi nhận. Ông được nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh về công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

 

Lê Văn Tùng

Từ "Truyện Kiềuđến "Từ điển Truyện Kiều"

Truyện Kiều là tác phẩm nghệ thuật đặc biệt vì có sự tích hợp truyền thống văn chương của dân tộc, văn chương của thời đại tác giả (thế kỷ XVIII - XIX) với ảnh hưởng nhất định của văn hóa Á Đông qua văn chương Trung Quốc cổ trung đại cùng sự sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du (1765 - 1820). Trong ý nghĩa đó, "Trước Truyện Kiều không có sách gì hay bằng Truyện Kiều và sau Truyện Kiều cũng không (chưa - LVT) có sách gì hay hơn Truyện Kiều"(1).

Trong lịch sử xuất bản Truyện Kiều, bản Truyện Kiều đầu tiên có tên là Đoạn trường tân thanh với bút tích của Nguyễn Du do Phạm Quý Thích khắc in vào đầu những năm 20 thế kỷ XIX ngay sau khi Nguyễn Du qua đời nhưng đến nay không còn tìm thấy. Tính đến năm 2020 - năm kỷ niệm 200 mất Nguyễn Du thì con số lần xuất bản Truyện Kiều kể cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ phải đến trên 110 lần, cùng với hàng chục bản dịch và xuất bản bằng tiếng nước ngoài ở nhiều nước như: Nhật Bản, Nga, Đức, Trung Quốc, Pháp,… thì Truyện Kiều quả thật là một hiện tượng văn hóa đặc biệt của văn học Việt Nam.

Từ Truyện Kiều đã hình thành trong trí thức và nhân dân Việt Nam nhiều loại hình hoạt động văn hóa đặc thù: thơ vịnh Kiều, trò Kiều, tập Kiều, bói Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, thi xướng họa Truyện Kiều, nghiên cứu bình luận Truyện Kiều,… cùng các nghệ thuật tạo hình như hội họa, điêu khắc… Muốn thực hiện các hoạt động văn hóa ấy, người ta từ góc nhìn của mình phải đọc hiểu Truyện Kiều từng đoạn hay toàn cả. Đọc, hiểu để sáng tạo. Muốn thế, không thể không quan tâm trước hết tới nghĩa của các đơn vị ngôn từ mà Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Một số trường hợp các nhà nghiên cứu phê bình chỉ xuất phát từ ý đồ chủ quan của mình, không "đếm xỉa" tới hệ thống ngôn từ cụ thể của tác phẩm đã phán xét một cách bất công với nhân vật và với cả tác phẩm. Ngay từ thế kỷ Nguyễn Du, một trí thức nho học tài hoa, đa tình, người đồng hương Nghi Xuân với Nguyễn Du - nhà thơ Nguyễn Công Trứ hơn 70 tuổi vẫn "Gót tiên theo đủng đỉnh một hai dì", vậy mà từ lối nghĩ chủ quan về đạo đức phong kiến đã "Trách Kiều" một cách tàn nhẫn: "… Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm". Thôi thì xuất thân từ nền học cũ như vậy cũng không lạ, sang thế kỷ XX, một thi nhân cũng đa tình không kém, từ nền học cũ nhưng đã tiếp cận nhiều tri thức Tây học là thi sĩ Tản Đà mà cũng chì chiết Kiều thậm tệ: "… Đôi làn nước mắt đôi làn sóng/ Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan…" (Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến).

Dẫn vài ba trường hợp trong nhiều trường hợp từ hai thế kỷ vừa rồi "đọc" Truyện Kiều nhưng không quan tâm đầy đủ và đúng đắn nghĩa của ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Du dùng trong tác phẩm nên đã lạc đường trên hành trình đi tìm văn hóa của kiệt tác Truyện Kiều. Các học giả và thi nhân mà còn vậy thì người đọc bình dân lại càng khó khăn hơn khi muốn đọc hiểu Truyện Kiều. Bây giờ thì ở ta đã có sự thừa nhận cái định luật muôn thuở của loài người mà một thời kỳ trong thế kỷ XX ta thường "vô ý" bỏ quên. Đó là: đọc văn học là đọc một nghệ thuật. Mà văn học là nghệ thuật ngôn từ. Vậy thì muốn đọc Truyện Kiều một cách sáng tạo để đi tìm giá trị văn hóa đa nghĩa hết sức phong phú của tác phẩm, người đọc dẫu ở trình độ nào cũng cần quan tâm trước hết tới toàn bộ các "tế bào" ngôn từ của tác phẩm.

Ngôn ngữ Truyện Kiều đạt tới mức biểu ý, biểu cảm tuyệt vời. Nhưng ngôn ngữ ấy không chỉ thuần túy là tiếng Việt "lời quê" dễ hiểu. Do tập quán dụng ngôn của người Việt xưa có sự kết hợp nhiều yếu tố Hán Việt và tiếng Việt cổ, các yếu tố này có nhiều trong Truyện Kiều. Mặt khác, Nguyễn Du cũng sử dụng rất nhiều điển cố, điển tích trong văn liệu, sử ký, địa dư Trung Quốc cũng như trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Vì vậy, người đọc đại chúng ngày nay với phổ ngữ hiện đại không dễ dàng tiếp nhận được ngay ý nghĩa của các yếu tố ngôn từ cụ thể trong tác phẩm để hiểu tác phẩm vừa chính xác vừa sáng tạo.

Từ điển Truyện Kiều (TĐTK) của Giáo sư - học giả Đào Duy Anh là một "công cụ" văn hóa hết sức hữu ích để mọi người đọc có thể nhận được "những nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm"(2). Từ đó, người đọc có cơ sở cần thiết để kết nối các yếu tố nghệ thuật thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm, dẫn đạo cho sự sáng tạo đi tìm giá trị của kiệt tác Truyện Kiều. Về cấu tạo, cách trình bày giải nghĩa của TĐTK, bạn đọc có thể xem kỹ trong Lời đầu sách của Đào Duy Anh. Ở đây xin nêu vài điểm mong được bạn đọc đồng cảm chia sẻ.

Cuốn Từ điển quan trọng này có vận mệnh gần gũi với "thân chủ" của nó: Truyện Kiều. Cả hai đều trải qua những năm tháng lận đận, Truyện Kiều thì dài hơn đến những 200 năm, còn TĐTK cũng trải 10 năm "chiếc bách giữa dòng". Hoàn thành bản thảo vào tháng 11/1965 (200 năm sinh Nguyễn Du), cụ Đào Duy Anh gửi lên UBKHXH và Viện Sử học hồi đó "nhận được nhiều lời cổ vũ nhưng cuốn sách vẫn nằm đó không thể in được"(3). Gần 10 năm sau, đến 1974 cụ Đào Duy Anh đã thấy là vô vọng, bèn đưa bản thảo cho người em dâu là bà Trần Minh Châu (lúc ấy là Cục trưởng Cục Xuất bản) nhờ gửi vào lưu trữ thư viện. Bà Trần Minh Châu chuyển cuốn sách cho Nxb KHXH, yêu cầu đưa vào kế hoạch xuất bản. Khi gửi lên Cục Xuất bản thì "nhiều người không dám duyệt cuốn sách của Đào Duy Anh. Vì vậy, phải triệu tập Hội đồng khoa học để bàn"(4). Trong Hội đồng "Ai cũng nhận xét… bản thảo có giá trị, nhưng không ai dám quyết"(5). Hình như ai cũng sợ một cái gì đó vô hình nên chẳng dám "Cuối cùng, bà Trần Minh Châu phải lấy tư cách Cục trưởng để quyết định in"(6).

Cuốn TĐTK in lần đầu 1974 với 30.200 cuốn và "phát hành trót lọt". Năm sau - 1975 giải phóng miền Nam "Trong số sách Cục Xuất bản quyết định tái bản để đưa vào Nam phục vụ cho việc tuyên truyền chính trị thì có cuốn Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh"(7). Từ đó đến nay TĐTK đã được tái bản nhiều lần, do nhiều nhà xuất bản khác nhau. Nxb Phụ nữ tái bản năm 2007, cuối phần Từ điển đã in thêm văn bản Truyện Kiều (VBTK) do chính Đào Duy Anh khảo đính - văn bản có uy tín nhất hiện nay - để tiện đối chiếu. TĐTK là cuốn sách thật sự cần thiết cho bạn đọc Truyện Kiều, nhất là phần đông bạn đọc vốn không có điều kiện tiếp xúc nhiều với tri thức Ngữ văn học.

Vấn đề đính chính Từ điển Truyện Kiều

Theo giới thiệu của Nxb Phụ nữ: "Từ điển Truyện Kiều được tái bản nhiều lần, nhưng có một số sai sót trong lần in đầu tiên vẫn chưa được sửa chữa trong những lần in sau"(8). Chắc bạn đọc còn nhớ nhiều sách xuất bản trước đây đều có một tờ đính chính chỗ sai để bạn đọc chữa giúp. Nhiều năm lại đây đã không còn thấy hiện tượng đó, kể cả các ấn phẩm khoa học có sai cũng không sửa lại với bạn đọc. Không những các cuốn sách mà bất cứ việc gì ta làm đều có thể có sai sót.

Cụ Đào Duy Anh, một trí thức lớn nhưng đã tự giác sâu sắc về "nguyên lý bất toàn" của thế giới, sau khi hoàn thành bản thảo TĐTK đã gửi nhờ các học giả khác đọc, góp ý và đã "có lời trân trọng cảm ơn các ông… đã góp với tôi nhiều ý kiến bổ ích khiến sách này bớt được khuyết điểm"(9). Ý thức những sai sót là khó tránh khỏi, lại ý thức những sai sót ấy cần được người khác giúp sửa đúng là ý thức văn hóa rất cao của người trí thức.

Tuy vậy, việc đính chính của người khác đối với một cuốn sách hoặc với một công trình nào đó cũng phải xuất phát từ nguyên tắcmục đích mà tác giả đã giới hạn. Cuốn TĐTK, theo ý tác giả: "Chỉ chú trọng nêu lên những nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến"(10).

Cũng đã có việc hiệu đính TĐTK để tái bản, trong một số trường hợp đã vượt cao hoặc vươn rộng hơn yêu cầu "chỉ nêu những nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Vì vậy, soạn giả hiệu đính tiến sâu hơn vào bình diện Ngôn ngữ học lý thuyết hoặc Ngôn ngữ học lịch sử. Bài phê bình của nhà nghiên cứu Huệ Thiên về 20 chỗ sai sót (mới chỉ một số) trong TĐTK (Nxb KHXH, 1989 - sách được hiệu đính từ 1986) chính là do vượt cao, mở rộng ra ngoài yêu cầu trên. Chẳng hạn, người hiệu đính đi tìm nguồn gốc của một số từ ngữ trong Truyện Kiều là gốc từ tiếng Khơme, tiếng Mường hay tiếng Hán, tiếng Pháp… Đến lượt người phê bình những chỗ vượt quá đó lại còn vượt quá hơn nữa khi đi tìm từ gốc của gốc. Ví dụ từ ghép "ban ngày", "gốc ở từ Khơme: Pêl… Nhưng Pêl lại là một từ Khơme gốc Sanskrit"(11). Thế là vô tình người đọc bị đẩy ra khỏi "nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Do những lỗi đó, nhà phê bình Huệ Thiên muốn "Đối với Từ điển Truyện Kiều, chúng tôi vẫn ái mộ văn bản chưa sửa" - tức là văn bản gốc của Đào Duy Anh - "hơn là văn bản đã "sửa chữa" (văn bản đã hiệu đính - Nxb KHXH, 1989)(12).

Nxb Phụ nữ năm 2007 tái bản TĐTK từ bản gốc của cụ Đào Duy Anh (1974) sau khi đã "Cố gắng  sửa chữa những chỗ còn sai sót được bạn đọc phát hiện"(13), kể cả bạn đọc từ Mỹ gửi về "một bản đính chính dài kèm đề nghị sửa chữa"(14). Dù vậy, hiện tượng "bất toàn" vẫn đang có mặt trong TĐTK của chính Nxb Phụ nữ. Nghĩa là vẫn còn xuất hiện khá nhiều sai sót cần đính chính. Có điều, các sai sót ấy có nguồn gốc từ đâu? Theo ý cụ Đào Duy Anh, chắc chắn có một tỉ lệ sai sót từ phía tác giả, nhưng phần nhiều là do công nghệ biên tập, in ấn cuối thế kỷ XX, và cũng không phải là ngoại lệ từ chính những người hiệu đính hay đính chính sau này. Xin xem đó là hiện tượng tự nhiên trong "nguyên lý bất toàn" vậy.

Việc đính chính của chúng tôi là do yêu cầu của cá nhân mình để đọc Truyện Kiều, khởi đầu từ một tình huống ngẫu nhiên: Tìm điều mục phận trong TĐTK lại thấy tác giả ví dụ (VD): "Phận hồng nhan có mong manh" (câu 65). Theo trí nhớ của chúng tôi, câu này không phải phận mà là kiếp. Tìm vào VBTK thấy đúng như vậy: "Kiếp hồng nhan…". Lại tìm điều mục kiếp trong TĐTK, thấy tác giả giải nghĩa kiếp khác với phận. Từ đó, chúng tôi thấy cần tìm những chỗ sai khác để tự điều chỉnh cho mình khi đọc Truyện Kiều. Việc này, có thể giúp cùng bạn đọc ít nhiều và cũng mong nhận được ý sửa đúng của bạn khi chúng tôi đính chính chưa đúng.

Việc đính chính này mất rất nhiều thời gian vì TĐTK có tới 2470 mục từ chính (tác giả gọi là điều mục). Còn các từ hệ thuộc (chữ của tác giả) bao gồm các từ liền trước hay liền sau điều mục thành các từ kép, thành ngữ, từ tổ…, theo thống kê là gần 3800 đơn vị. Tổng cộng là gần 7300 đơn vị. Trong khi đọc, khảo sát nếu thấy yếu tố có khả năng sai, chúng tôi phải đối chiếu điều mục này với điều mục khác có liên quan, đồng thời đối chiếu với VBTK do chính cụ Đào Duy Anh khảo đính in sau phần TĐTK. Từ đó đề xuất cách hiểu đúng với nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Có hiện tượng từ, ngữ VBTK không đúng thì cũng nêu ra để chọn cách chữa. Một số trường hợp sai sót, chúng tôi còn phải đối chiếu, tham khảo các từ điển khác:

Hán Việt từ điển của chính cụ Đào Duy Anh - Nxb Trường Thi, S.1957.

Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học - Nxb Đà Nẵng, 2004.

Từ điển Văn học Việt Nam (từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX) - Nxb Giáo dục, H.1999.

- Từ điển văn liệu - Long Điền Nguyễn Văn Minh - Nxb Á châu, 1952.

Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - Nguyễn Lân - Nxb Văn học, 2010.

3.  Tiếp tục đính chính "Từ điển Truyện Kiều" (Nxb Phụ nữ, 2007)

Kết quả công việc khảo sát, đính chính của chúng tôi được tổng hợp thành ba loại như sau:

3.1. Loại lỗi chính tả: khoảng hơn 40 lỗi gồm 2 tiểu loại:

+ Lỗi chính tả cơ học, đơn giản: Có nhiều nhưng không cần đính chính bởi người đọc đều hiểu và chọn đúng. VD: TĐTK dẫn câu 2257: "Còn đang dùng dằng ngẩn ngơ" - đúng phải là dùng dắng. TĐTK chép điều mục Dong thành Dóng là sai, đúng phải là dong: "… bốn bề lửa dong".

Lỗi chính tả dễ dẫn đến hiểu sai thì cần đính chính:

VD: TĐTK ở điều mục Đầu dẫn cụm từ "Đầu mày cuối mặt…" (câu 498) với nghĩa "tất cả mày mặt". VBTK câu này cũng chép "cuối mặt" (Đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu). Nhưng ở điều mục Cuối, TĐTK lại chép: "Đầu mày cuối mắt…". Cuối mắt mới đúng. Mỹ học Nguyễn Du không thể chép là cuối mặt. Vì cuối mặt thì phải hiểu là cái… cằm…

3.2. Những trường hợp khác nhau giữa TĐTK với VBTK: hầu hết là TĐTK sai, VBTK đúng; cũng có mấy trường hợp VBTK sai - TĐTK đúng. Chúng tôi có bảng thống kê (chắc chắn chưa đầy đủ) để sửa đúng sau:

3.3. Đính chính những trường hợp TĐTK giải nghĩa chưa đúng với "nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm"

Đây là nội dung chủ yếu và quan trọng nhất khi tham gia cùng cụ Đào Duy Anh đính chính TĐTK. Phần này vừa chỉ ra và sửa chỗ chưa đúng trong Từ điển vừa lý giải và phân tích ý nghĩa theo nguyên tắc và giới hạn do chính tác giả TĐTK nêu ra trong Lời đầu sách: Chỉ nêu "những nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến".

Do thoát ly nguyên tắc đó, nhiều người giải thích nghĩa của từ ngữ từ góc nhìn khác, sai cả "nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Một vài dẫn chứng:

+ Hai câu 367 - 368: Một tường tuyết chở sương che/ Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Có học giả Trung Quốc chê Nguyễn Du là "Đem cảnh tuyết mùa đông miêu tả vào dịp xuân hè, gây mâu thuẫn, phá hoại tính thống nhất chân thực của hoàn cảnh"(15). Cụ Đào Duy Anh trong TĐTK cũng giải nghĩa: "Tuyết chở sương che: tức là trên bức tường ngăn cách lại có tuyết đọng và có sương phủ". Theo chúng tôi, cả hai cách hiểu đều xuất phát từ góc nhìn địa lý tự nhiên chứ không phải góc nhìn văn hóa của nghệ thuật ngôn từ Nguyễn Du. Từ dẫn chứng trên, phải hiểu là Nguyễn Du dùng "tuyết" và "sương" với phương thức ẩn dụ (rất phổ biến trong Truyện Kiều) của ngôn ngữ thơ để chỉ cái duyên cách giữa Kim Trọng với Thúy Kiều, gợi niềm đồng cảm với tình yêu của con người trước ranh giới của tập tục và luân lý của đẳng cấp, của thời đại.

+ Ở điều mục Ăn có từ hệ thuộc ăn mặc, TĐTK bản gốc giải nghĩa đúng: Chỉ chung sự mặc quần áo và đưa ví dụ: Thấy màu ăn mặc nâu sồng (câu 2089). Cụm từ "ăn mặc nâu sồng" được TĐTK bản hiệu đính 1986 (in 1989 do Nxb KHXH) giải nghĩa: "… lối ăn mặc nâu sồng không phải là lối ăn mặc của sư sãi Trung Quốc mà là lối ăn mặc của sư sãi Việt Nam" (trang 32). Huệ Thiên phê bình: "Không thể nói Nguyễn Du đã mặc quần áo Việt Nam cho các nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân được"(16). Chúng tôi cũng thấy cụm từ ăn mặc nâu sồng, Nguyễn Du dùng theo nghĩa hoán dụ để hướng người đọc theo con mắt của vãi Giác Duyên nhìn Thúy Kiều khi nàng vừa trốn khỏi "Quan âm các" nhà Hoạn Thư và xuất hiện ở "Chiêu ẩn am" của Giác Duyên: Cô gái mới đến là một người tu hành, thế thôi! Chứ Nguyễn Du không hề có ý miêu tả cách ăn mặc của Thúy Kiều theo lối Việt Nam hay Trung Quốc.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát cả 7300 đơn vị từ ngữ của TĐTK (Nxb Phụ nữ, 2007) và đã tìm ra 42 trường hợp giải nghĩa chưa đúng với nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Trong khuôn khổ bài báo chỉ xin trình bày một số trường hợp. Số còn lại xin đăng tiếp ở số sau.

3.3.1. Ấy: Theo TĐTK có 3 nghĩa:

+ Nghĩa 2: "Đại từ, phiếm chỉ người hay vật nào đó" (có trong 8 câu). (Phiếm chỉ theo Từ điển tiếng Việt: "Chỉ chung chung, không rõ ràng cụ thể người nào, sự vật nào - đại từ phiếm chỉ" (trang 779). TĐTK ví dụ câu 80: "Ấy mồ vô chủ…". Ấy ở đây không hề phiếm chỉ mà là thực chỉ sự vật ở ngay trước mắt người nói (Vương Quan) và người nghe (Kiều - Vân): Ấy là mồ Đạm Tiên. Đừng nghĩ "mồ vô chủ" thì ấy thành phiếm chỉ. Chủ là người giữ gìn, chăm sóc chứ không phải người nằm dưới mộ.

+ Ở nghĩa 1: TĐTK "chỉ người, vật ở chỗ khác". Chưa đủ, còn có việc ấy, thời gian ấy nữa: "Thôi thì việc ấy…" (câu 768), "Lo gì việc ấy…" (câu 1547), "Từ rằng việc ấy…" (câu 2324), "Đoạn trường lúc ấy…" (câu 1324), "… dư ngày ấy thôi" (câu 2612).

+ Vậy ở nghĩa 3 theo TĐTK là "chỉ thời gian": theo chúng tôi hoặc không nên đặt ra (TĐTK chỉ nêu một câu 2440: "Binh uy từ ấy...", hoặc chuyển câu 1324 và 2612 xuống nghĩa 3 này vì lúc ấyngày ấy cũng như từ ấy thôi).

3.3.2. Cam: TĐTK chỉ thấy 2 nghĩa:

Nghĩa 1: thỏa (6 câu), VD: "… chút lòng chưa cam" (câu 456).

Nghĩa 2: đành (4 câu), VD: "…búa rìu cũng cam" (câu 1396).

+ TĐTK giải thiếu 1 nghĩa: cam là ngọt, trái với khổ là đắng, có trong 2 câu "… đến ngày cam lai" (câu 3210) và "Trân cam ai kẻ..." (câu 1258).

+ Đã thế, TĐTK lại kê dẫn hai câu này vào phần hệ thuộc hai nghĩa 1 và 2. Vậy, cam phải có 3 nghĩa: nghĩa thứ 3 là ngọt, quý (hai câu đã dẫn).

3.3.3. Lòng: TĐTK nêu 2 nghĩa:

Nghĩa 1: Ruột, bụng, chỉ sự sinh đẻ, 2 câu: "… rốt lòng" (câu 13) và "Đầu lòng…" (câu 15).

Nghĩa 2: Ruột, bụng dạ, tâm tình, ý nguyện, ý chí, 160 câu, VD: "Lòng đâu sẵn mối thương tâm" (câu 81).

+ Nên bỏ từ ruột ở nghĩa 2 để loại biệt cho rõ.

+ Từ hệ thuộc Lòng quê trong câu 1122 "Lòng quê đi một bước đường một đau" và từ hệ thuộc Nỗi quê (trong điều mục Nỗi) đều được TĐTK giải nghĩa: "Lòng thơ dại (quê mùa vụng dại)" và "Nỗi lòng quê mùa vụng dại" (câu 1318: Nỗi quê còn một hai điều ngang ngang). Cách giải nghĩa của TĐTK không đúng. Đúng phải là: Lòng thương nhớ quê hương và gia đình của người xa xứ - Ở đây là nỗi lòng của Thúy Kiều trên đường phiêu bạt tận chân trời góc bể.

3.3.4. Thẹn: Cụm từ hệ thuộc "… Thẹn lục e hồng" (câu 787), TĐTK giải nghĩa: "Hổ thẹn vì nhan sắc của mình" nhưng lại chú giải: "Lục là lá, hồng là hoa, chỉ sắc đẹp phụ nữ".

+ Không ai nói lục là lá cả mà là màu xanh của lá (diệp lục), cũng vậy hồng ở đây Nguyễn Du không nói tắt cho hoa, mà là màu hồng của hoa để tạo đối xứng thẹn lục - e hồng theo phép tỉ dụ: Nàng Kiều hổ thẹn vì sắc đẹp của mình đã "rơi đến tay hèn"...

Chú thích

(1). Trần Đình Sử tuyển tập - tập 1 - Nxb Giáo dục, 2005, tr.87.

(2), (9), (10). Đào Duy Anh - Lời đầu sách "Từ điển Truyện Kiều" - Nxb Phụ nữ, 2007.

(3), (4), (5), (6), (8), (13), (14). Đào Thế Hùng - Lời giới thiệu "Từ điển Truyện Kiều" (sđd).

(7). Trần Minh Châu - Số phận long đong của một cuốn từ điển - T/c Xưa và Nay, số 6/2004, tr.17. 

(15). Dẫn theoTrần Đình Sử tuyển tập - tập 1 (sđd) tr.79.

(11), (12), (16). Huệ Thiên trong sách Những tiếng trống qua cửa nhà sấm - Nxb Trẻ, 2004, tr369-309.

 

 




NHUẬN BÚT


Tác giả: article?img id=2111440
Tiêu đề: Chuyên san KHXH&NV số 8/2020
Ngày xuất bản: ngày 19 tháng 08 năm 2020
Nội dung:

Vũ Thành Trung

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam vốn đã đầy ắp những sự kiện nhưng nó càng trở nên phong phú, sinh động hơn bởi trong đó chứa đựng thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945. Đã 75 năm trôi qua, nhưng tầm vóc, ý nghĩa của những sự kiện lịch sử vĩ đại này vẫn vẹn nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trở lại tình hình, đầu năm 1945, trước thắng lợi của lực lượng "Đồng minh", tình hình thế giới có sự chuyển biến mau lẹ, tạo thuận lợi lớn cho cách mạng Việt Nam. Ở trong nước, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngay trong đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương, thay khẩu hiệu đánh đuổi Nhật - Pháp bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật... Đến ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.

Đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1: Hiệu triệu toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 14-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương "Tổng khởi nghĩa" của Đảng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"(1).

Thực hiện lời kêu gọi của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam muôn người như một vùng lên, tạo thành ưu thế áp đảo, giáng một đòn quyết định vào các cơ quan đầu não, làm tê liệt mọi sự kháng cự của phát xít Nhật và tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công rực rỡ, chỉ trong một thời gian ngắn, chính quyền của đế quốc, phong kiến và tay sai thống trị gần 100 năm bị đập tan và chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm bị xóa bỏ vĩnh viễn, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ hoàn toàn, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc trong suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951): "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"(2).

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 còn là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chống thực dân, phong kiến, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó xác định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, với lực lượng cách mạng là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân tộc. Thời điểm năm 1945, các đảng viên cộng sản dù số lượng còn rất ít, nhưng gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, luôn đặt lợi ích của đất nước, của nhân dân lên trên hết, bất khuất, kiên cường trước sự đàn áp, tù đày, tra tấn dã man của địch, nhiều người đã hy sinh oanh liệt vì lý tưởng cao đẹp. Cùng với sự đúng đắn đường lối của Đảng, chính những tấm gương bất khuất, kiên cường, hy sinh cao cả của các đảng viên cộng sản đã giác ngộ, lôi cuốn, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tin theo Đảng, tham gia các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo, tạo thành sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam.

Không những vậy, với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, "Quốc hiệu Việt Nam" được khôi phục; những giá trị văn hóa cao đẹp của nước Việt Nam được giành lại và phát triển. Mỗi người Việt Nam được Cách mạng tháng Tám mang lại vinh dự và tự hào là dân của một nước độc lập, tự do. Về ý nghĩa dân tộc và quốc tế của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"(3). Tuy nhiên điều đáng nói, từ đây, trong chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, cách mạng Việt Nam có lúc đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", khó khăn chồng chất, nhưng đã làm nên những chiến công vang dội: Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" (7-5-1954); kết thúc cuộc trường chinh vĩ đại chống đế quốc Mỹ xâm lược bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 (30-4-1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; tiếp đó là thắng lợi trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Đặc biệt, đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn.

Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"(4).

Tuyên ngôn độc lập là văn kiện lịch sử, pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc, không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước thế giới mà còn mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta, nhân dân ta trên con đường xây dựng và phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh đó, Tuyên ngôn độc lập là kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ gắn liền với Hồ Chí Minh mà còn mở ra thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Không dừng lại ở đó, Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do. Trong hành trình gian khó ấy, có Đảng lãnh đạo, với một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ và phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại, dân tộc ta đã thủ tiêu toàn bộ chế độ thực dân, phong kiến, "lấy lại tên trên bản đồ thế giới". Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không chỉ là một mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà còn làm cho nền văn hiến Việt Nam: "Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững/Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa/Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng/Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa" được khẳng định và lan tỏa cùng thời đại.

Với Tuyên ngôn độc lập, một nước Việt Nam hồi sinh sau bao mất mát, hy sinh tiếp tục hướng đến tương lai tươi sáng, đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong hành trình ấy, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng" trong Tuyên ngôn độc lập; về điều mong muốn cuối cùng "toàn Đảng, toàn dân đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" trong Di chúc gắn với "bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc"(5), coi lợi ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có nghĩa định hướng hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực, Việt Nam đã luôn kiên định và sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước, kể cả các nước có quá khứ là thù địch nhưng công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đó chính là truyền thống bao dung, nhân ái Việt Nam, là xóa bỏ hận thù và gác lại quá khứ để cùng nhau hướng tới tương lai.

Như vậy, với những ý nghĩa bao trùm và mang tính thời đại sâu sắc đó, bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 không chỉ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà còn trở thành ngày Quốc khánh của dân tộc Việt Nam. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương 1, điều 13, mục 4 khẳng định: "Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945".

75 năm trôi qua kể từ ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất nước ta đã nỗ lực, phấn đấu vươn lên mạnh mẽ. Đặc biệt, sau hơn 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội. Vị thế và uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Những thành tựu đạt được từ ngày thành lập nước đến nay chứng tỏ sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu đạt được Việt Nam còn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các nguy cơ mà Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khóa VII vào tháng 1-1994 đã chỉ ra, đến nay vẫn tồn tại và có điểm diễn biến phức tạp. Trong khi đó, tình hình tranh chấp chủ quyền gây căng thẳng trên biển Đông đã và đang đe dọa trực tiếp đến độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia của Việt Nam.

Trước bối cảnh tình hình đó, Đảng, Nhà nước Việt Nam xác định bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền biển, đảo, đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vì thế, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, đảo của Tổ quốc. Để hoàn thành sự nghiệp cao cả ấy ngoài phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, việc phát huy những bài học từ lịch sử, những truyền thống quý báu của dân tộc, đặc biệt là tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 có nghĩa đặc biệt quan trọng.

Với tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 bất diệt, kỷ niệm 75 năm những sự kiện trọng đại này chính là dịp để bất cứ người dân Việt Nam nào, đồng bào cả nước cũng như kiều bào ta ở nước ngoài bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng ta và dân tộc ta, Người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho dân, cho nước, dẫn dắt Đảng ta, nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và làm "rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Đồng thời, chúng ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì nghĩa vụ quốc tế cao cả. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các bậc lão thành cách mạng, các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với nước, cùng toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lao động sáng tạo, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta.

Tóm lại, 75 năm đã trôi qua, nhưng Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 vẫn là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Phát huy tinh thần và những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 chúng ta cần kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; tranh thủ thời cơ thuận lợi, chủ động khắc phục khó khăn, đẩy nhanh phát triển kinh tế, xã hội, chiến thắng đói nghèo, dịch bệnh, đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ mong đợi lúc sinh thời!

 

Chú thích

(1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.596.

(2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.38.

(3). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.25.

(4). Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.2,3.

(5). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016, tr.34.

 

Phạm Xuân Cần

Tính cách là một khái niệm thuộc tâm lý học cá nhân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Tính cách. 1. (giáo dục) sự kết hợp độc đáo các đặc điểm tâm lý ổn định của từng người. Tính cách có khi gọi là tính nết, là nội dung của hành vi và quy định phương thức hành vi đặc trưng của người đó trong những điều kiện và hoàn cảnh sống nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh và bản thân. Tính cách là thái độ đã được củng cố trong những phương thức hành vi quen thuộc. Phân biệt tính cách và nét tính cách: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các nét tính cách - những thuộc tính nhân cách; nét tính cách là bộ phận của tính cách có ý nghĩa riêng đối với từng trường hợp, từng môi trường, tùy theo nó tương quan như thế nào với những nét tính cách khác"(1).

Nói một cách dễ hiểu nhất, tính cách chính là "cách" thể hiện cái "tính" (hoặc cái nết) của mỗi người. Ví dụ: Nhà có nhiều người con, ai cũng kính yêu bố mẹ, nhưng mỗi người thể hiện tình cảm một cách khác nhau. Mở rộng ra, khái niệm tính cách có thể được vận dụng để nói về tính cách của một nhóm người, một cộng đồng người ở những quy mô khác nhau. Khi đó thực chất tính cách được hiểu là tập hợp những nét tính cách nổi trội, phổ biến của nhóm người đó. Vì vậy, "Tính cách Nghệ" muốn nói ở đây là những nét tính cách nổi trội, mang tính phổ biến của cộng đồng người Nghệ nói chung. Tính cách của một cá nhân, hay của một nhóm, một cộng đồng người sẽ được nhận biết một cách rõ ràng hơn khi đặt bên cạnh, khi tiếp xúc, giao lưu với người khác, nhóm hoặc cộng đồng khác.

Năm 1996, khi công cuộc đổi mới ở nước ta đã bắt đầu đi vào thực chất, với những biến đổi sâu rộng về kinh tế xã hội, những vị lãnh đạo Nghệ An thời đó đã sớm nhận ra cần phải đổi mới ngay chính nhân tố căn cốt nhất của công cuộc đổi mới, đó chính là con người. Chính vì vậy, một chương trình khoa học lớn đã được khởi động. Đó là chương trình nghiên cứu về con người Nghệ An trước yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chương trình do Trường Đại học Sư phạm Vinh chủ trì, PGS Lê Bá Hán làm chủ nhiệm. Thế nhưng, không phải đến lúc đó vấn đề người Nghệ mới được đem ra giải phẫu, mà từ hàng trăm năm trước cho đến tận ngày nay, tính cách Nghệ luôn luôn khơi gợi được cảm hứng cho các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Tất thảy họ đều quả quyết rằng: Người Nghệ quả thật rất đặc biệt, tính cách Nghệ quả thật rất độc đáo. Những hằng số tính cách Nghệ thường được điểm danh là: Trung dũng; quyết liệt; cần kiệm; khảng khái; hiếu học; giàu chí tiến thủ; chân thành, thẳng thắn; tự trào… Tuy nhiên, bên cạnh những phẩm chất đáng quý đó, người Nghệ cũng có không ít "điểm trừ" trong tính cách. Điều đáng nói là hầu như các phẩm chất của người Nghệ, khi bị đẩy cao lên cực đỉnh lại thành ra là điểm yếu. Quyết liệt quá thì thành ra cực đoan; Thẳng thắn quá thì là thô ráp, cứng nhắc; Cần kiệm quá trở nên ki bo, kẹt xỉn; Khảng khái quá thì dễ là gàn; Kiên định quá thì có khi trở thành bảo thủ; Cố kết cộng đồng quá thì dễ cục bộ, địa phương, kết bè kéo cánh… Trong rất nhiều những nét tính cách được coi là "điểm trừ" của người Nghệ có lẽ gàn và cực đoan là nổi trội hơn cả. "Đồ gàn xứ Nghệ" từ lâu đã là một thương hiệu, một biểu tượng. Bên cạnh đó tính cách Nghệ cũng bộc lộ rất rõ qua giao tiếp ứng xử. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh dùng từ "cứng cỏi" để nói về điều này. Theo ông, trong mỗi con người Nghệ đều có bốn đặc điểm: Có lý tưởng trong tâm hồn; Sự trung kiên trong bản chất; Sự khắc khổ trong sinh hoạt; Sự cứng cỏi trong giao lưuMột nhà nghiên cứu khác cho rằng: Nếu người đồng bằng Bắc bộ có sự ứng xử mềm mỏng, khéo léo, được ông mô hình hóa bằng hình tròn, thì mô hình ứng xử của người Nghệ được ông vẽ bằng hình vuông. Hình vuông thật dễ hiểu, thật bộc trực, thật kiên định, thật chắc chắn, nhưng rõ ràng là khó chuyển động hơn, khó thích nghi, khó hài hòa và dễ gây tổn thương cho người khác hơn so với hình tròn. Trong một xã hội duy tình, ưa chuộng sự hài hòa, thì rõ ràng mô hình giao tiếp ứng xử theo kiểu hình vuông của người Nghệ không phải lúc nào cũng được chấp nhận một cách dễ dàng.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất hiện nay không phải là tổng kết để khẳng định những phẩm chất được coi là hằng số của người Nghệ, hay những tật xấu được cho là cố hữu của người Nghệ. Vấn đề là người Nghệ cần làm gì, cần thay đổi gì để vẫn là người Nghệ, với những hằng số phẩm chất đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, nhưng đồng thời lại là người Nghệ hiện đại, sẵn sàng thích nghi và đáp ứng những yêu cầu của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Con người là sản phẩm của lịch sử. Đối mặt với những hoàn cảnh sống, điều kiện sống mới, tính cách người Nghệ có dịp thử thách và tự biến đổi để thích nghi. Không khó để thấy rằng: Những người Nghệ có sự biến đổi tính cách mạnh nhất chính là những người Nghệ xa quê. Có thể ta vẫn thấy họ vẹn nguyên "lý tưởng trong tâm hồn; sự trung kiên trong bản chất", như giáo sư Vũ Ngọc Khánh nói. Nhưng, hai yếu tố còn lại "sự khắc khổ trong sinh hoạt và sự cứng cỏi trong giao lưu", thì xem ra đã thay đổi rất nhiều. Với người Nghệ ở quê hương, hầu như sự biến đổi về tính cách của mỗi giới, mỗi người tỷ lệ thuận với mức độ giao lưu với bên ngoài của họ. Chúng ta có thể cảm nhận thấy sự biến đổi của tính cách Nghệ, nhất là trong giao tiếp, ứng xử khá rõ nét qua cách sử dụng tiếng Nghệ hiện nay. Về từ vựng, dân ta đã dùng tiếng phổ thông nhiều hơn, nhất là khi giao tiếp với người ngoại tỉnh. Về âm điệu, giọng nói của dân mình cũng không thật nặng và khó nghe như trước. Về phong cách, những người giao tiếp nhiều với bên ngoài cũng đã tiết giảm được cả về âm lượng và tốc độ phát âm. Có thể nói đó là những chỉ dấu rất tích cực, cho thấy người Nghệ đang tự điều chỉnh mình, sao cho vừa giữ bản sắc, vừa thích nghi với điều kiện mới.

Một phẩm chất nổi trội của người Nghệ là hiếu học. Thậm chí có nhà nghiên cứu đã nói, người Nghệ đã biến sự học thành đạo học. Thế nhưng, mới cách đây mười mấy năm thôi vẫn có nhiều nhà nghiên cứu, nhà sư phạm than phiền rằng hiếu học của người Nghệ là hiếu học lệch lạc, là chỉ hiếu học theo kiểu tầm chương trích cú, học để lập ngôn, lập danh, chứ không học để lập nghiệp. Thế rồi, chính cuộc sống đã buộc người Nghệ phải xem lại sự hiếu học của mình. Nếu như mười mấy năm trước, gần như 100% học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học đều dự thi đại học, thì liên tục trong mấy năm gần đây tỷ lệ đó chỉ còn trên dưới 60%. Điều này cho thấy người Nghệ vẫn rất hiếu học, đất Nghệ vẫn là đất học, nhưng đạo học xứ Nghệ đã được điều chỉnh về mục tiêu theo hướng thiết thực và gia dụng hơn.

Đó là những tín hiệu rất tích cực, cho thấy tính cách Nghệ cũng có khả năng điều chỉnh, biến đổi theo hướng thích nghi ngày càng tốt hơn với kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập. Tuy nhiên, quá trình biến đổi đó rất cần được nhận thức và định hướng một cách đúng đắn và chủ động. Ít ra là trên truyền thông hãy giảm bớt những bài ca về người Nghệ cao đẹp, hãy nói nhiều hơn đến những thói hư tật xấu, những "điểm trừ" trong tính cách Nghệ, để gột rửa và điều chỉnh. Tham gia Hội đồng thẩm định chương trình, tôi đã đề xuất đưa nội dung về Người Nghệ và Tính cách Nghệ vào chương trình Giáo dục địa phương của tỉnh Nghệ An, để các cháu biết sớm nhận diện mình. Hãy đầu tư nhiều hơn, đúng hướng hơn cho giáo dục, để đạo học xứ Nghệ không còn lệch lạc, phiến diện. Nhưng, quan trọng nhất vẫn là tìm mọi cách mở rộng giao lưu, hội nhập, đưa cả nước, đưa cả thế giới đến với người Nghệ và đưa người Nghệ đến với cả nước và thế giới. Trong môi trường hội nhập sâu rộng đó, người Nghệ không chỉ thấy rõ mình hơn, mà đồng thời vừa biết tự vệ để mình vẫn là mình, vừa biết biến đổi để ít nhất là thích nghi, cao hơn là trở thành công dân toàn cầu. Hơn một trăm năm trước, những nhà đầu tư đến từ Pháp, Ấn, Trung Hoa, Hà Nội, Nam Định… đã tạo cú hích lớn để định hình nên một đô thị Vinh - Bến Thủy về kỹ nghệ và thương mại mang kích cỡ Đông Dương. Nhưng chính đô thị đa văn hóa Vinh - Bến Thủy trong thời kì đó, đến lượt nó lại tác động mạnh mẽ đến giao tiếp, ứng xử của người Nghệ, góp phần tạo nên những trí thức, nhà doanh nghiệp lừng danh và một thế hệ thị dân "đời đầu" ở Vinh rất Nghệ, nhưng cũng rất cách tân. Chúng ta đã từng có những Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, hay gần hơn, những Nguyễn Xiển, Nguyễn Mạnh Cầm, Trương Đình Tuyển, Đặng Thai Mai,… rất Nghệ, rất Việt, nhưng cũng rất quốc tế.

Tính cách Nghệ không chỉ hun đúc, chưng cất và lắng đọng lại thành bản sắc văn hóa xứ Nghệ không thể lẫn lộn với ai, mà chính nó cũng đã và đang biến đổi theo chiều gạn đục khơi trong. Cho nên, câu chuyện tính cách Nghệ, vì vậy cũng không phải chỉ là câu chuyện của lịch sử và hoài niệm, mà quan trọng hơn đó là câu chuyện của cuộc sống đương đại và tương lai.

 

Chú thích:

(1). Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2005.

 

Trương Văn Dũng

1. Khái quát về tính cách người Nghệ An

Tính cách con người nó được hình thành và phát triển gắn với sự hình thành và phát triển của văn hóa vùng, miền, quốc gia dân tộc và đặc biệt những nét tính cách tốt đẹp được bồi đắp và phát huy, hoàn thiện và phát triển, còn cái tính cách gọi là "thói hư, tật xấu" dần được loại bỏ, thay vào đó là những nét tính cách phù hợp với xu hướng và thời đại. Và không nằm ngoại lệ, tính cách người Nghệ cũng được hình thành và phát triển cách đây hàng trăm năm. Và nói đến tính cách, hay bàn về tính cách người Nghệ thì cho đến nay đã có không ít các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, chuyên gia, với nhiều công trình, bài viết khá công phu, đầy đủ, chẳng hạn: Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828), GS. Đặng Thai Mai, GS. Vũ Ngọc Khánh, GS. Phong Lê, Nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Đào Nguyên,… Từ các nghiên cứu đó cho chúng ta thấy, ngoài đặc tính chung của người Việt, thì người xứ Nghệ có những đặc tính riêng, khá độc đáo, khác biệt với các vùng khác. Tính cách khác biệt đó khá rõ ràng và chúng ta có thể khái quát những nét tính cách cơ bản, nổi trội của người Nghệ: Ham hiểu biết, học giỏi, đỗ đạt cao, có nhiều cống hiến cho đất nước; Chăm làm, cần cù, nhẫn nại, chịu khổ, chịu khó nên có thể sống và lập nghiệp được ở bất cứ nơi nào; Khảng khái, trọng danh dự, dũng cảm, có bản lĩnh, sẵn sàng hy sinh quyền lợi vật chất để có được sự thanh thản trong đời sống tinh thần; Yêu nước, yêu quê, mộc mạc, chân thành, tình nghĩa, có tinh thần đoàn kết bảo vệ lẫn nhau; Coi trọng nề nếp gia đình, cần kiệm, chắt chiu, biết lo toan nên luôn luôn vượt qua gian khó… Đây chính là những tính cách đã làm nên vẻ đẹp, sự thanh tao của con người xứ Nghệ. Với những tính cách tốt đẹp, nổi trội đó, người Nghệ luôn đi đầu trong các cuộc kháng chiến, các phong trào cách mạng và luôn có mặt ở những nơi khó khăn ác liệt nhất. Và cũng chính nhờ đó mà người Nghệ luôn được tôn trọng, được ca ngợi, vinh danh trên nhiều phương diện (chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…). Qua các nghiên cứu, phần đông đều cho tính cách ấy là do thiên nhiên khắc nghiệt, cuộc sống nghèo khổ tạo dựng nên. Còn theo chúng tôi, tính cách người Nghệ đó là sự cộng hưởng của hàng loạt nhân tố hội tụ Thiên - Địa - Nhân, hay nói cách khác là bị quy định bởi các nhân tố địa tự nhiên, địa kinh tế và địa nhân văn rất riêng của người Nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những nét tính cách nổi trội đó, ở người Nghệ cũng tồn tại không ít nhược điểm như: Nóng nảy, cục cằn, tự kiêu, tự mãn, bảo thủ, keo kiệt v.v. Cũng chính những nhược điểm này khiến người Nghệ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận, hòa nhập với các vùng miền trong mọi mối quan hệ, thậm chí kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội… Chẳng hạn, những năm gần đây có hiện tượng một vài nơi vẫn có thành kiến với người Nghệ, họ cho rằng người Nghệ khó tiếp thu, khó hòa nhập, vì thế mà không nhận công nhân, lao động là người Nghệ. Nhưng dưới góc độ nghiên khoa học, chúng tôi cho rằng đây là quan điểm thiên vị, thiển cận và thậm chí là sai lầm.

Chúng ta biết rằng, tính cách của con người, ở một vùng miền nào đó, thậm chí quốc gia nào đó đều được hình thành từ hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm trước. Đúc kết từ thực tiễn, người ta cho rằng, người Nghệ đều tỏ ra giỏi giang trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học, nghệ thuật, thể thao… , còn trong lĩnh vực kinh tế thì người Nghệ thường tỏ ra kém cỏi, ít năng động nên cái nghèo, cái đói cứ đeo đẳng họ suốt đời. Có lẽ do sự khắc nghiệt của thiên nhiên khiến người Nghệ thường có khả năng chịu khó, chịu khổ, từ đó mà người ngoài, khi nhìn vào nghĩ là họ keo kiệt, bủn xỉn. Nhưng thực chất người Nghệ rất phóng khoáng, rất tình người, họ ít toan tính cá nhân mà thiên về chia sẻ lợi ích cộng đồng nhiều hơn.

Do đó, ở Việt Nam, hầu như không ai bàn cãi về việc người xứ Nghệ có những đặc tính riêng, mà người ta mặc nhiên công nhận người Nghệ có nhiều nét khác với những người vùng miền khác. Đúng, điều đó không phải ngẫu nhiên mà người ngoài tỉnh khi tiếp xúc người Nghệ thì biết ngay là người Nghệ, có thể qua ngoại hình, giọng nói, qua diễn ngôn hay có thể qua tính cách hoặc người ta nghĩ ngay đến một số hình ảnh, đặc sản, cảnh vật thậm chí là một số giai thoại… Cái quan trọng hơn cả mà người ngoài nhận biết được "tính cách Nghệ" là vì: nét tính cách của người Nghệ đã được kết tinh thành những giá trị văn hóa tương đối bền vững. Chúng ta cần phải khẳng định rằng tính cách đặc trưng của người Nghệ là một nét văn hóa độc đáo, ở trong đó, họ đã tự xây dựng cho mình một bộ tiêu chí lựa chọn. Để rồi, từ đó biến nó thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân xứ Nghệ đang hiện có như ngày nay.

Ngày nay, nhìn toàn cảnh bức tranh kinh tế, xã hội Nghệ An thay đổi từng ngày từng giờ, chúng ta có thể nhận ra một điều rằng: không ai có thể làm hoặc yêu cầu người Nghệ thay đổi tính cách của họ, mà chính nền kinh tế thị trường đã tác động đã làm thay đổi tính cách của chính bản thân họ. Nghĩa là khi "đối diện" với kinh tế thị trường, tính cách của người Nghệ đã thực sự có thay đổi đáng kể. Không còn bó hẹp trong phạm vi tỉnh nhà, mà người Nghệ đã tỏa đi khắp mọi miền đất nước thậm chí ra nước ngoài để lập nghiệp. Họ đã có cái nhìn thấu đáo, khách quan, họ nhận ra những mặt yếu, mặt mạnh, cái hay, cái dở trong tính cách của mình để thích ứng (hay còn gọi là đối diện) với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể - điều kiện kinh tế thị trường. Ngày nay, không ít người Nghệ đi làm ăn xa quê hương đã rất thành đạt, thậm chí có rất nhiều người xuất sắc. Và họ không chỉ hiến kế (góp ý), mà còn sẵn sàng đầu tư, góp sức để phát triển kinh tế, xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, như: Phạm Nhật Vượng, Lê Thanh Thản, Thái Hương... Cùng với bức tranh kinh tế (thành tựu), chính trị, xã hội hiện tại của Nghệ An, người ta phải thừa nhận rằng, người Nghệ thông minh và có ý chí nên khi họ tập trung vào lĩnh vực nào thì họ đều có thể thành công. Qua đó, chứng minh một điều rằng, chính người Nghệ chỉ ra cái hay, cũng như cái dở của mình, và những cái hay "nổi trội" đã được phát huy một cách có hiệu quả. Và cái đáng trân trọng hơn nữa đó là, mặc dù thành đạt, thậm chí rất thành đạt nhưng nhiều doanh nhân người Nghệ hiện vẫn giữ được tính cách đặc trưng, cốt lõi của họ.

2. Tính cách người Nghệ đối diện với kinh tế thị trường

Trước hết, chúng ta cần phải làm rõ thuật ngữ "đối diện". Theo Đại từ điển tiếng Việt, "đối diện" nghĩa là ở ngay vị trí trước mặt; trực tiếp quay vào nhau....      Trong trường hợp "đối diện" với kinh tế thị trường, thì theo chúng tôi, đó là đối diện với các quan hệ kinh tế, với các hình thức sở hữu, cách thức, phương thức sản xuất, kinh doanh (nghệ thuật kinh doanh), đối diện với sự thay đổi của khoa học, kỹ thuật, việc áp dụng, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, các quan hệ cung cầu, kích thích tăng trưởng, vận dụng các đòn bẩy kinh tế, kể cả đối diện với các rủi ro v.v… Do đó, tính cách người Nghệ lúc này đòi hỏi phải có sự thay đổi, thậm chí thay đổi căn bản để thích ứng với sự vận động của kinh tế thị trường. Tức là phải thay đổi để mở rộng, nâng cao khả năng nắm bắt, tiếp cận kịp thời và đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế thị trường.

Nhìn vào thực tế cuộc sống, tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng của Nghệ An trong những năm gần đây có thể khẳng định tính cách "nổi trội" của người Nghệ đã có nhiều thay đổi quan trọng, lãnh đạo cũng như người dân xứ Nghệ đã nhận ra và biến "triển vọng và tiềm năng" thành hiện thực, nghĩa là họ đã phát triển kinh tế, đưa thu nhập bình quân đầu người tăng lên, giảm nghèo, vươn lên làm giàu…

Nhìn lại thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2010-2015 và giai đoạn 2015 đến nay, chúng ta thấy một sự tăng trưởng, bứt phá ngoạn mục của người Nghệ "Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 29 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với năm 2010"(1). Đáng chú ý là sự tăng trưởng kinh tế đáng kể của khu vực miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Cụ thể là, thu nhập bình quân đầu người vùng dân tộc thiểu số 2018 đạt 29,09 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân từ 3-4%(2). Với kết quả này, rõ ràng chúng ta thấy, nếu không có sự thay đổi, thích ứng với các điều kiện của kinh tế thị trường để đưa ra các giải pháp kích cầu, thu hút đầu tư, phát huy các tiềm năng, lợi thế, gác lại những cái gọi là "nhỏ nhen, hẹp hòi ích kỷ" thì làm sao có được kết quả như vậy được.

Khi đối diện với kinh tế thị trường, chúng ta thấy những tính cách "nổi trội" của người Nghệ được thay đổi cả từ nội dung cho đến hình thức, hay nói cách khác trong các quan hệ kinh tế, dịch vụ: từ lời nói, hành vi, giao tiếp và mọi xử sự đều đã thay đổi, mềm mại, nhã nhặn, lịch sự văn minh đã thay cho sự nóng tính, thô kệch, cục cằn, cứng nhắc của năm nào. Điều đó được thể hiện, phản ánh nổi bật nhất trong ngành công nghiệp không khói (Dịch vụ du lịch). Theo thống kê của tỉnh, những năm gần đây, lượng khách du lịch đến Nghệ An ngày càng đông, "Năm 2019, du lịch Nghệ An đã đón và phục vụ 6.530.000 lượt khách du lịch với 4.700.000 lượt khách lưu trú, trong đó, khách quốc tế đạt 145.000 lượt. Tổng thu du lịch ước đạt 8.800 tỷ đồng, trong đó doanh thu các dịch vụ du lịch ước đạt 4.580 tỷ đồng. Đây được coi là tiền đề để phấn đấu năm 2020 đón khoảng từ 5 - 5,1 triệu lượt khách du lịch lưu trú, trong đó có 170 ngàn khách quốc tế; doanh thu dịch vụ du lịch ước đạt 5.260 tỷ đồng, tiếp tục hướng tới mục tiêu đưa du lịch Nghệ An trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác ở địa phương…."(3).

Nhìn vào các kết quả nói trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, khi đối diện với kinh tế thị trường thì tính cách và khả năng người Nghệ hoàn toàn đáp ứng được, thậm chí là đáp ứng tốt. Để biến tiềm năng của thiên nhiên và con người thành những giá trị vật chất cụ thể, người Nghệ đã có sự điều chỉnh, thay đổi lớn trong cách nghĩ, cách làm. Và thành tựu kinh tế xã hội hiện nay của Nghệ An đã chứng minh rằng, khi đối diện với kinh tế thị trường người Nghệ đã phát huy được những nét tính cách tốt đẹp, truyền thống cùng với học hỏi kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa chính trị của "mình" để xây dựng và phát triển nhanh, mạnh, vững chắc kinh tế xã hội của tỉnh, góp phần chung vào sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Qua đó cũng cho thấy rằng, người Nghệ làm cái gì, tiếp thu cái gì cũng nhanh, do đó, khi đối diện với kinh tế thị trường thì người Nghệ cũng sẽ thích ứng rất tốt. Với diện mạo hiện tại, người Nghệ đã và đang dần xóa bỏ những nét tính cách lạc hậu, cổ hủ và thay vào đó là những nét tính cách theo chiều hướng khá tích cực. Hay nói cách khác, người Nghệ đã có rất nhiều thay đổi, đặc biệt họ tỏ ra rất linh hoạt, thích ứng kịp thời, sửa sang để đối diện với mọi hoàn cảnh được cho là thiên biến của kinh tế thị trường. Đặc biệt là xóa đi tư tưởng hiềm khích, hoài nghi trước đây người Nghệ làm kinh tế yếu hơn, còn người Nghệ bây giờ giao lưu nhiều, nhạy bén hơn, tư duy kinh tế tốt hơn và khi đã quyết tâm thì họ sẽ làm bằng được và có thể thay đổi cuộc sống nhanh chóng từ thái cực này sang thái cực kia. Đây chính là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tính cách người Nghệ, khác với trước kia, khi mà "tính thực dụng" đang được vận dụng một cách hiệu quả khi đối diện với kinh tế thị trường.

Suy cho cùng, tính cách nói chung của con người và của người Nghệ nói riêng đều là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tính cách tất nhiên sẽ có những biến đổi để thích ứng. Tính cách người Nghệ là kết quả của quá trình lịch sử - tự nhiên, do vậy những nét nổi trội nói trên sẽ là một ưu thế mà người Nghệ có quyền tự hào khi đối diện với kinh tế thị trường. Trên cơ sở phát huy thế mạnh đó, người Nghệ cũng đã thu hẹp lại được khoảng cách, cản trở, thành kiến không tốt trước đây đối với người Nghệ về tính "tự mãn, hẹp hòi, bảo thủ, cục bộ địa phương…" và các nhà đầu tư, nhà kinh tế cũng như khách thập phương về Nghệ An mà không còn e ngại.

3. Những vấn đề đặt ra

Trong bối cảnh kinh tế thị trường, có nhiều mặt trái đang tác động tiêu cực tới con người, làm thay đổi không ít các mối quan hệ truyền thống, tốt đẹp, thay vào đó là các quan hệ đặt trong sự ràng buộc, chi phối của đồng tiền và hiển nhiên tính cách con người cũng sẽ bị thay đổi. Một trong những biểu hiện rõ nét của xu hướng này là sự suy giảm về mặt đạo đức của không ít người, nhất là lớp trẻ, thậm chí của cả một số cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất. Cùng với đó là sự xuất hiện các yêu tố tiêu cực khác, như chủ nghĩa cục bộ, địa phương, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao quá mức tiện nghi vật chất, xa hoa, lãng phí, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ biểu hiện trong lối sống, trong cách ứng xử giữa người với người. Những tiêu cực này đang ảnh hưởng đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta. Đáng chú ý là sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường cũng đã bắt đầu có sự thay đổi trong tinh thần chia sẻ với cộng đồng. Trước đây, sự chia sẻ cộng đồng của người Nghệ rõ ràng hơn (không so bì hơn kém), còn bây giờ thì theo "quan hệ kinh tế" hơn nhiều. Tất nhiên ở đây có thể là do sự thay đổi về thiết chế xã hội, tác động của kinh tế thị trường, sự phân tầng xã hội tác động đến các "không gian riêng" từng gia đình. Do đó, cần phải có những biện pháp giáo dục cụ thể để cho các thế hệ tiếp sau có tính trách nhiệm cao hơn, khát vọng cháy bỏng hơn và giàu tinh thần cống hiến cho xã hội hơn, không nên giáo điều và háo danh, đánh mất đi tính cách tốt đẹp của người Nghệ. Nếu không đặt vấn đề giáo dục truyền thống, nếu không chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống... một cách đúng mức cả trong gia đình, nhà trường lẫn xã hội thì tình trạng suy thoái đạo đức chẳng những không sớm được ngăn chặn, mà còn đứng trước nguy cơ tiếp tục gia tăng. Vấn đề đặt ra ở đây, chính là vấn đề quan hệ con người trong nền kinh tế thị trường, là ý thức về trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình, đối với cộng đồng và toàn xã hội.

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Nghệ An đã và đang triển khai, phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm, để tận dụng lợi thế "tiềm năng sẵn có" và tiếp tục phát huy tính cách nổi trội của người Nghệ trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, theo chúng tôi, người Nghệ cần:

- Tiếp tục mở rộng cửa để người ngoại tỉnh, người nước ngoài đến làm ăn ở Nghệ An, qua đó, một mặt đóng góp tăng trưởng kinh tế cho tỉnh, mặt khác cũng là cơ hội để giao lưu, hợp tác, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm, từ đó có thể "tiếp nhận" những tố chất tốt đẹp đến cho người Nghệ.

- Hạn chế những tiêu cực, phát huy những điều tích cực trong tính cách người Nghệ để thích ứng (hay đối diện) với kinh tế thị trường thì người Nghệ cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, giáo dục từ trong gia đình, nhà trường và xã hội, lắng nghe ý kiến phản biện trái chiều của đối tác, khách hàng trong mọi mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ kinh tế. Phát huy nét tính cách tốt đẹp vốn có của người Nghệ "nói đi đôi với làm", để đối tác của kinh tế thị trường chấp nhận hợp tác, đầu tư cùng có lợi…

- Tiếp tục vinh danh những nhân tố (nhân tài) mới, tạo dựng các phòng trào "cần vương" trong kinh tế thị trường hiện đại để các thế hệ sau noi theo học hỏi, nhân lên sức mạnh truyền thống của quê hương (lòng tự hào, tự tôn cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển rất mạnh mẽ). Học tập được xem là một phương thức tối ưu nhất để thoát nghèo, thoát khổ, vươn cao bay xa, khẳng định sức mạnh của con người về mặt trí tuệ. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích rõ ràng, cụ thể để chiêu hiền đãi sĩ về đầu tư, xây dựng và phát triển quê hương.

Thực hiện được những vấn đề nêu trên cũng chính là thực hiện Nghị quyết số 05 ngày 14/12/2016, của Tỉnh ủy Nghệ An về việc xây dựng con người và gia đình Nghệ An trong thời kỳ mới cũng đã đưa ra một hệ thống các phẩm chất của người Nghệ. Trong xây dựng chính sách cần quan tâm yếu tố kinh tế trong tính cách cốt lõi của người Nghệ và ngược lại lấy tính cách cốt lõi của người Nghệ để làm mục tiêu phát triển kinh tế.

Kết luận

- Qua nghiên cứu, phân tích và viện dẫn nói trên, khi đối diện với kinh tế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, người Nghệ, một mặt vẫn giữ được tính cách cơ bản, đặc trưng, tinh thần yêu nước, yêu dân tộc, nhưng họ đã có những thay đổi rất linh hoạt, thậm chí đạt trình độ nghệ thuật cao trong ứng xử với các quan hệ kinh tế thị trường và sử dụng nó như một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, họ đang dần hạn chế đi tính cục bộ địa phương, tính khí bộc trực, bảo thủ, cục cằn, thô kệch, tằn tiện… Đó là tính cách mạnh mẽ của người Nghệ trong thời đại công nghệ 4.0.

- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi thế hệ trẻ, người lao động, đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhà nước phát triển cả đạo đức và nhân cách một cách toàn diện. Đó là đạo đức trung thực, đạo đức trong lời nói, hành động, tự giác trong lao động và học tập, phải gắn kết giữa lời nói với việc làm, giữa nhận thức và hành động. Tính cách có tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa nếu không gắn với thực tiễn vận động và phát triển thì không thể phát huy được, không thể đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Để làm được điều này, người Nghệ An chỉ có thể trên cơ sở khai thác hiệu quả nội lực, đặc trưng nét tính cách, văn hóa bao đời của mình, để phát triển lên một tầm cao mới góp phần xây dựng Nghệ An ngày càng phồn vinh và thịnh vượng.

 

Chú thích

(1). Thành Duy, "GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi trong 5 năm". Nguồn: https://baonghean.vn/nghe-an-gdp-binh-quan-dau-nguoi-tang-gap-doi-trong-5-nam-83642.html. Cập nhật ngày 06/10/2015.

(2). Đào Tuấn "Tập trung các giải pháp cho nhân dân các dân tộc tỉnh Nghệ An hội nhập và phát triển". https://baonghean.vn/tap-trung-cac-giai-phap-cho-nhan-dan-cac-dan-toc-tinh-nghe-an-hoi-nhap-va-phat-trien. Cập nhật ngày 12/09/2019.

 (3). Nguồn: https://truyenhinhnghean.vn/kinh-te/tin-tuc/202005/nghe-an-ban-giai-phap-thuc-day-du-lich-noi-dia-va-phuc-hoi-du-lich-quoc-te-hau-dich-covid-19-c61172f/.

Mai Văn Hải

Tính cách vùng miền, tính con người địa phương nói riêng và tính cách dân tộc nói chung luôn là một trong những đề tài hấp dẫn và được quan tâm tìm hiểu từ nhiều góc độ khác nhau như tâm lý học, dân tộc học, văn hóa học… Thông qua việc làm rõ tính cách một vùng đất, một địa phương cụ thể, người ta có thể hiểu được các đặc điểm văn hóa, bản sắc con người, cách nghĩ, cách sống của những con người trên địa bàn, vùng đất đó.Tính cách là sản phẩm, là sự kết tinh của các đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoạt động sống của con người trên vùng đất đó; nhưng cũng đồng thời là nguồn vốn xã hội, là nội lực bên trong của con người trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa cũng như phát triển kinh tế - xã hội địa phương.Từ góc độ lý luận về tính cách trong tâm lý học, bài viết dưới đây xin bước đầu nêu ra một vài ý kiến về tính cách dưới góc độ tâm lý học cá nhân và tâm lý học xã hội.

1. Tính cách dưới góc độ tâm lý học cá nhân

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tính cách. AG. Covaliov, nhà tâm lý học người Nga cho rằng cấu trúc nhân cách con người gồm 4 thành phần chính: khí chất, tính cách, xu hướng và năng lực. Như vậy, theo quan điểm này, tính cách là một mặt của nhân cách con người.

Là một phần của nhân cách, vì vậy tính cách có tính ổn định và bền vững. Tính cách thể hiện trong hệ thống thái độ của cá nhân với hiện thực xung quanh, thể hiện trong hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng tương ứng. Nói cách khác, những thái độ và hành vi thể hiện bên ngoài không phải là những tình huống, cách thể hiện ngẫu nhiên mà ổn định và bền vững, đặc trưng cho cá nhân đó thì ta coi đó như tính cách con người. Như vậy, tính cách phải thể hiện trong hệ thống hành vi. Nếu không xem xét hành vi của cá nhân đó thì không thể hiểu về tính cách của họ. Mặt khác, những hành vi của cá nhân thể hiện thái độ sống của cá nhân với bản thân, người khác và xã hội nói chung. Những hành vi, ví dụ buổi sáng ngủ dậy đánh răng rửa mặt vốn không hàm ý những giá trị xã hội mà cá nhân đó theo đuổi, vươn tới thì không coi là tính cách.

Phân tích như vậy, ta có thể nói: Tính cách là những thuộc tính tâm lý tương đối ổn định của cá nhân, biểu hiện thái độ của con người đối với hiện thực và được thể hiện trong hành vi, trong cử chỉ của họ (Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Lê Khanh, 1989).

Tính cách của con người không phải là cái gì nhất thành, bất biến mà tính cách của con người được hình thành và phát triển trong điều kiện sống và hoạt động của cá nhân. Một con người từ khi mới sinh ra không phải đã có ngay những đặc điểm như trung thực, yêu lao động, dũng cảm, lười biếng… Những phẩm chất ấy được hình thành trong quá trình cá nhân sống và làm việc trong một môi trường và bối cảnh xã hội nhất định. Con người là một thực thể xã hội, vì vậy, đặc điểm tâm lý, tính cách con người cũng được hình thành gắn liền với môi trường, địa phương con người đó được sinh ra, lớn lên. Chính vì vậy, việc nắm rõ, hiểu rõ đặc điểm môi trường sống, các mối quan hệ xã hội của cá nhân là cơ sở để ta có thể hiểu rõ đặc điểm tính cách con người trong các tình huống nhất định.

Như chúng ta đã đề cập ở trên, tính cách con người là một cấu trúc phức tạp, là sự khái quát hóa của nhiều nét tính cách ổn định. Trong những tình huống nhất định, một người dũng cảm có thể nhút nhát và ngược lại, người nhút nhát có thể trở nên mạnh mẽ, dũng cảm. Vì vậy, xem xét tính cách con người phải đặt nó trong hệ thống tổng thể. Tất cả những nét tâm lý nào đó, một khi đã trở thành đặc trưng của con người, tạo nên nét tính cách con người đó. Các nét tính cách này kết hợp lại với nhau theo một phương thức nhất định gọi là tính cách con người. Nói cách khác, nói đến tính cách là nói đến tổng thể những nét tính cách tạo nên một đơn vị thống nhất.

Về mặt cấu trúc, tính cách thường được xem xét ở hệ thống thái độ và hệ thống hành vi tương ứng. Hệ thống thái độ của tính cách thể hiện ở các mặt như thái độ với tập thể, với xã hội nói chung. Ở mặt này, thái độ thể hiện trong tình cảm nhân văn, trung thực hay không trung thực… Mặt thứ hai của thái độ thể hiện ở thái độ với lao động như cần cù chăm chỉ hay lười biếng, tiết kiệm kỷ luật hay không kỷ luật… Mặt thứ ba của thái độ thể hiện trong mối quan hệ người với người như thẳng thắn hay không, đoàn kết gắn bó với bạn bè đồng hương hay thờ ơ bàng quan… Mặt thứ tư của thái độ thể hiện trong mối quan hệ với chính bản thân chủ thể: họ khiêm tốn hay kiêu ngạo, nghiêm khắc hay dễ dãi với bản thân, có chí tiến thủ hay buông xuôi. Tất cả những thái độ nói trên thể hiện một cách nhất quán qua hành vi. Người có thái độ sống giàu lòng vị tha, tôn trọng người khác thì hệ thống hành vi của họ cũng tương ứng như vậy. Hành vi là mặt biểu hiện ra bên ngoài, thống nhất hữu cơ với mặt bên trong là hệ thống thái độ của con người (Nguyễn Quang Uẩn, 2001).

Ngoài quan điểm nói trên, khi xem xét tâm lý cá nhân, người ta thường dùng tới thuật ngữ "traits" tức các nét đặc điểm tâm lý. Theo hướng này, mô hình năm yếu tố (big five) được sử dụng nhiều, gồm: tính hướng nội hay hướng ngoại (nói nhiều hay ít nói, cẩn thận hay ưa mạo hiểm, cởi mở hay giữ kẽ…); tính ổn định cảm xúc (bình tĩnh hay lo lắng, điềm tĩnh hay dễ bị kích động…); sự dễ chịu hay không dễ chịu (hợp tác hay bất hợp tác, hòa nhã hay bướng bỉnh…); tính cởi mở hay không cởi mở (giàu tưởng tượng hay đơn giản, hiểu biết hay thiếu hiểu biết…); sự tận tâm hay không tận tâm (có trách nhiệm hay không có trách nhiệm, tỉ mỉ hay cẩu thả…).

Nói tóm lại, dưới góc độ tâm lý học cá nhân, tính cách là một khái niệm thể hiện những đặc trưng riêng về hệ thống thái độ và hành vi của con người trong mối quan hệ với bản thân và thế giới xung quanh. Việc xem xét tính cách cá nhân đòi hỏi phải hiểu được môi trường sống và hệ thống hành vi, hệ thống thái độ trong nhiều bối cảnh, tình huống khác nhau.

2. Tính cách dưới góc độ tâm lý học xã hội

Dưới góc độ tâm lý học xã hội. Tính cách dân tộc hay tính cách con người ở một vùng miền, một địa phương nhất định được thể hiện trong những đặc điểm mang tính bản sắc, đặc điểm văn hóa của con người trong vùng miền hay dân tộc đó. Phạm Xuân Nam (2008) cho rằng mỗi dân tộc có bản sắc độc đáo riêng... Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc biểu hiện ở mỗi dân tộc trong lịch sử và phát triển của dân tộc, đồng thời giúp dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính duy nhất, tính nhất quán, tính độc đáo của bản thân mình trong quá trình phát triển. Như vậy, tính cách con người trong một dân tộc, một cộng đồng đã mang trong mình những đặc điểm chung về mặt văn hóa, bản sắc của dân tộc, cộng đồng đó.

Nói về tính cách dân tộc, Gannhiep cho rằng: Tính cách của dân tộc, tư tưởng và văn hóa là một cái gì đó "rất khôn khéo". Khi ta biết anh ta là ai và khi đó muốn gọi anh ta bằng từ nào đó mà cảm thấy rất khó thì thường nói tới cái chung nhất không chỉ đối với anh ta, mà chung cho cả dân tộc (Gannhiep, 1988). Theo nhà tâm lý học Nga T.G. Stefanenko (2003), tính cách dân tộc bị quy định bởi các nguyên tắc sau: Thứ nhất, tính cách dân tộc không phải là tổng số tính cách của từng thành viên của nó mà là những nét điển hình được thể hiện ở một số lượng lớn các thành viên của dân tộc đó. Thứ hai, không nên xem xét những nét nào đó là cái tiêu biểu cho một cộng đồng dân tộc. Ví dụ, tính kỷ luật không phải là nét tính cách quan trọng nhất của dân tộc Nhật và dân tộc Đức mà là nét tính cách chung cho nhiều dân tộc trên thế giới. Thứ ba, các nét tính cách có thể hiểu là tổng số các giá trị phụ thuộc vào điều kiện địa lý, điều kiện kinh tế - xã hội, lối sống và tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Từ việc xem xét các nội dung nói trên, Vũ Dũng (2009) cho rằng tính cách dân tộc là những đặc điểm tâm lý bền vững của một dân tộc, được hình thành và biểu hiện trong hoạt động thực tiễn và trong giao tiếp.

Margaret Mead (1953) cho rằng những nghiên cứu về tính cách dân tộc là một thử nghiệm nhằm tìm ra cái cách mà ứng xử văn hóa được nhận biết hiện trong cấu trúc nội tâm thần của các cá nhân thành viên của nền văn hóa ấy. Khái niệm tính cách văn hóa chỉ toàn bộ những nét cá tính điều hòa trong ứng xử của những thành viên thuộc cùng một đơn vị xã hội và được tổ chức thành một "cấu trúc tính cách văn hóa". Nói đúng hơn, đó là một sự trừu tượng hóa, một công cụ khái niệm dùng để chỉ cá tính nội tâm riêng của một tập hợp các cá nhân cùng chia sẻ một nền văn hóa tổng thể giống nhau: văn hóa dân tộc.

Trong khi nghiên cứu về tính cách dân tộc, tính cách cộng đồng, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới coi tính cách là một trong những đặc trưng của tâm lý dân tộc. Nói cách khác, tính cách của một cộng đồng, một dân tộc thể hiện bản sắc dân tộc đó. Các đặc trưng bản sắc dân tộc thể hiện qua việc các thành viên của công đồng chia sẻ các đặc điểm chung về tính cách, lối ứng xử, cách nghĩ… Những đặc điểm này được các thành viên của cộng đồng, của nhóm dân tộc đó nhận thức đầy đủ, đồng nhất mình với những đặc điểm tính cách đó và thừa nhận, tuân theo nó. Ivan Pavlov coi bản sắc dân tộc là một dạng của hiện tượng tâm lý tổng quát, đó là những nét đặc thù, những nét nổi bật (dẫn theo V. Pronikov, I. Ladanov, 2004). Một trong những biểu hiện rõ nét nhất được nhiều nhà nghiên cứu nói đến là tự ý thức của cá nhân về việc anh ấy/chị ấy thuộc về một nhóm xã hội, một dân tộc. Chẳng hạn, một số tác giả cho rằng, bản sắc nhóm là một khái niệm đa chiều bao gồm tự nhận dạng bản thân, đánh giá, điểm nổi bật, tầm quan trọng, sự gắn bó cả trên tình cảm và hành động với nhóm của mình (Ashmore, Deaux, & McLaughlin-Volpe, 2004; Tajfel & Turner, 1986) (dẫn theo Kosic, M., và Dimitrova, R., 2017). Bản sắc dân tộc là sự chia sẻ về nguồn gốc, tổ tiên, lịch sử và văn hóa trong một nhóm dân tộc qua đó, cá nhân gắn bó với dân tộc mình cả trên tình cảm và nhận thức (Verkuyten, 2005) (dẫn theo Kosic, M., và Dimitrova, R., 2017). Trong nghiên cứu về tự phân loại bản thân (self-categorization) và sự phân biệt chủng tộc, Verkuyten (1998) đã sử dụng định nghĩa về bản sắc cá nhân và bản sắc xã hội như sau: Bản sắc cá nhân có thể được định nghĩa như tự mô tả bản thân dưới góc độ cá nhân hay các phẩm chất/thuộc tính về mặt tính cách và mặt sinh học; bản sắc xã hội đề cập đến sự tự định nghĩa bản thân dưới góc độ phân loại là thành viên của xã hội (Brown và Turner, 1998, p.38), (dẫn theo Verkuyten, 1998). Như vậy, ngầm ẩn sau tự ý thức về sự thuộc về một nhóm xã hội hay dân tộc nào đó là sự chấp nhận của cá nhân đối với hệ giá trị của nhóm, là cách thức ứng xử theo những chuẩn mực nhất định, là lối sống và những tính cách nhất định đặc trưng cho nhóm hay dân tộc mà cá nhân tự ý thức rằng họ là thành viên.

Như vậy, ở bình diện tâm lý học xã hội, tính cách được nghiên cứu dưới góc độ nhóm, cộng đồng, dân tộc. Ở bình diện này, tính cách của một dân tộc, một cộng đồng thể hiện ở sự chia sẻ các đặc điểm chung trong lối sống, ứng xử, tự ý thức về bản thân mình thuộc về một dân tộc, một nền văn hóa… Cũng như tính cách cá nhân, tính cách dưới góc độ cộng đồng, dân tộc cũng được hình thành trong những điều kiện nhất định về môi trường sống, phương thức hoạt động giao tiếp của nhóm, cộng đồng, dân tộc đó.

3. Những gợi ý trong tiếp cận và nghiên cứu tính cách con người

Từ những kết quả nghiên cứu nói trên, ta có thể rút ra một số nhận xét trong tiếp cận và nghiên cứu tính cách con người như sau:

- Tính cách dù được xem xét ở bình diện cá nhân hay xã hội đều được hình thành và phát triển, thể hiện thông qua hoạt động, các mối quan hệ xã hội. Tính cách con người của một vùng đất, một địa phương hay một dân tộc là sản phẩm kết tinh của phương thức sống của con người trên vùng đất đó. Tính cách gắn liền với các điều kiện, đặc điểm về địa lý, con người nơi họ được sinh ra và lớn lên. Chính vì vậy, nghiên cứu tính cách không thể tách rời các điều kiện địa lý, phương thức sống, nếp sinh hoạt hàng ngày của con người trên vùng đất đó.

- Tính cách là sản phẩm của văn hóa vùng miền, là tài sản chung để mỗi thành viên của cộng đồng đó tự ý thức, coi đó là giá trị để giữ gìn, phát huy dù có thể đang sinh sống ở môi trường văn hóa khác. Có thể nói, đây là đặc điểm bản sắc của một dân tộc, một địa phương, một cộng đồng người. Vì vậy, nghiên cứu tính cách con người không thể tách rời các giá trị văn hóa, bản sắc con người trên vùng đất đó. Cũng thông qua đặc điểm này, ta thấy được giá trị của con người, của vùng đất đó trong mối quan hệ với con người, nền văn hóa khác để phát huy, giữ gìn trong cuộc sống muôn màu hiện nay.

- Tính cách của một con người hay của một cá nhân luôn được nhìn nhận trong mối quan hệ đa chiều với các hiện tượng tâm lý khác. Tính cách được hình thành và cũng bộc lộ thông qua hoạt động hàng ngày. Tính cách thể hiện bản sắc, giá trị chung của con người trên vùng đất đó, tính cách gắn liền với đặc điểm văn hóa của mảnh đất con người cụ thể và được cảm nhận một cách "rất khôn khéo". Chính vì vậy, nghiên cứu về tính cách của một địa phương, một cộng đồng hay một dân tộc đều phải đặt nó trong tổng hòa các đặc điểm về văn hóa, con người. Ví dụ nếu nói người Nghệ An hay người miền Trung chăm chỉ cần cù thì thực tế đó cũng là đặc điểm chung của người Việt Nam hay người Nhật Bản. Nếu nói người xứ Nghệ bộc trực thẳng thắn thì nhiều nghiên cứu về văn hóa con người Tây Nam bộ cũng cho kết quả tương tự.

- Trong điều kiện hiện nay, các vùng miền, các dân tộc, quốc gia luôn có sự giao thoa, đa dạng về mặt văn hóa. Chính vì vậy, việc phát huy bản sắc con người, tính cách con người trong bối cảnh giao thoa văn hóa đó là rất cần thiết để giữ gìn những tính cách thực sự là giá trị văn hóa đồng thời phát huy các phẩm chất đó trong cuộc sống. Chỉ trên cơ sở phát huy được giá trị bản sắc của con người trên mảnh đất cụ thể, họ mới có sự tự tin và sử dụng hết nguồn lực con người từ trí tuệ, năng lực, ý chí vượt khó đến niềm tin vào "địa linh nhân kiệt" của mảnh đất mình sinh ra để sống và làm việc một cách hiệu quả. Đó chính là nguồn nội lực mạnh mẽ của con người và khơi dậy được nguồn tài nguyên vô tận này là sức mạnh để phát triển một cách bền vững.

Tài liệu tham khảo

1. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học Dân tộc, NXB Từ điển Bách khoa.

2. Phạm Minh Hạc (chủ biên, 1989), Tâm lý học, NXB Giáo dục.

3. Kosic, M., & Dimitrova, R. (2017), Collective identity assets for psychological well-being in Slovene minority and Italian majority adolescents in Italy, Current issue in personality psychology, Vol.5(1), 53-63.

4. Mead, M. (1953), National character. In: Kroeber, A.L. Anthropology today: an encyclopedic inventory, Chicago, p. 651.

5. Phạm Xuân Nam (chủ biên, 2008), Triết lý phát triển ở Việt Nam: mấy vấn đề cốt yếu, NXB Khoa học Xã hội.

6. Pronikov, V., và Ladanov, I. (2004), Người Nhật, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Stefanenko T.G. (2003), Tâm lý học dân tộc, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Lê Thị Minh Loan và Nguyễn Hữu Thụ dịch).

8 Nguyễn Quang Uẩn (2003), Tâm lý học Đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

9. Verkuyten, M.(1998), Self-categorization and the explanation of ethnic discrimination, Journal of cummunity and a

Nguyễn Đình Chú

Phan Bội Châu vừa là một lãnh tụ cách mạng vĩ đại vừa là một nhà văn hóa siêu hạng của đất nước của quê hương Lam Hồng. Ở Cụ là một sự hòa quyện tuyệt đẹp hiếm có giữa con người chiến sĩ và con người nghệ sĩ. Văn chương của Cụ là cả một kho báu đồ sộ về tư tưởng tình cảm cao cả, về lẽ yêu ghét đen trắng rạch ròi được chưng cất từ một chính nghĩa cảm lút trời. Trong đó, cống hiến lớn nhất cho đất nước giang sơn ở thời buổi nô lệ lầm than tăm tối, lòng dân ít nhiều đã nguội lạnh là dốc tâm thắp sáng lên một ngọn lửa rực hồng lý tưởng anh hùng bằng nhiều thể loại văn chương bao gồm cả văn xuôi và văn vần. Có cả nhân vật hư cấu.

Trong văn xuôi của Cụ hầu hết viết bằng chữ Hán đã được dịch ra tiếng Việt, nhưng cũng có chỗ viết bằng Quốc ngữ, những nhân vật lịch sử của quê hương Lam Hồng hiện diện không theo trật tự lịch sử trước sau mà tùy theo nội dung từng tác phẩm. Nhưng ở đây để tiện cho việc theo dõi của bạn đọc, tôi sẽ trình bày theo thứ tự lịch sử trước sau. Và điều tôi muốn nói trước là tâm thế và phong cách viết chân dung nhân vật riêng của Cụ Phan. Tâm thế đó là một bầu nhiệt huyết sục sôi thể hiện bằng một giọng điệu đa thanh có chủ âm là tụng ca ngun ngút xen lẫn với bi ai não nuột từ tâm trạng một người đang cực độ xót xa cho vận nước vận dân. Do đó, tuy là văn xuôi tự sự nhưng ở đây vẫn nổi lên nhân vật trữ tình Phan Bội Châu nặng lòng với đất nước hiếm có trong văn học xưa nay. Cách viết thì không chỉ là chuyện liệt kê tiểu sử như thường gặp mà còn gắn với lời bình và lý giải hiện tượng về những cuộc đời và sự kiện của nhân vật. Từ đó tạo ra một nội dung phong phú về triết lý nhân sinh, về quan niệm anh hùng, về điều hay lẽ phải, về nguyên nhân thành công thất bại trong cuộc sống cần cho người đọc biết để rút kinh nghiệm vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Trong lời bình lại liên hệ đối sánh với vĩ nhân của thế giới để mở rộng tầm mắt và năng lực nhận thức cho người đọc.

1Mai Hắc Đế: Chính tên là Mai Thúc Loan, quê Thiên Lộc, Thạch Hà, Hà Tĩnh, hiện diện trong Việt Nam quốc sử khảo viết năm 1909 và in ở Nhật Bản năm 1912 ở tiểu mục "Những vị anh hùng bậc nhất chống ngoại xâm mà thất bại". Tác giả cho biết: Sách sử đời Đường Trung Quốc đã chép như sau: "ở An Nam có Mai Hắc đế làm phản xưng đế, đem quân 33 châu, ngoài thì giao kết với Lâm Ấp, Chân Lạc, Kim Ngân, chiếm biển Nam, quân đông đến 40 vạn. Tư Húc xin mộ binh 10 vạn cùng với Sở Quan Khách theo đường của  Má Viện đánh vào một cách bất ngờ. Thúc Loan hoảng sợ không kịp trù mưu nên đại bại".  Tác giả bình: thất bại là do chưa huy động được nhân dân dù lòng dân đã nguội lạnh trước họa xâm lăng. Tác giả so sánh Mai Hắc Đế với Victoria và Napoléon của Pháp với cả hai Bà Trưng của nước nhà đã thắng lợi là nhờ được lòng dân hưởng ứng để rút ra chân lý: Dân thì có thế này thế khác nhưng muốn thắng lợi nhất định phải có sự đồng tình hưởng ứng của dân.

2Đặng Tất (Hà Tĩnh), và Nguyễn Cảnh Chân (Nghệ An): Cũng Việt Nam quốc sử khảo cho biết: Giặc Minh xâm chiếm nước ta. Chúng yết bảng tìm con cháu nhà Trần. Đặng Tất biết tin, giết quan giặc Minh và đem quân đón rước Quỹ (Trần Quỹ), con thứ Nghệ Tông vào Hóa Châu (Nghệ An) tôn làm vua là Giản Định đế để chống giặc. Đại quân của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chiến thắng giặc, giải phóng được từ Thuận Hóa ra tới Thanh Hóa và trên đà tiến ra giải phóng Đông Đô được nhân dân hưởng ứng rầm rộ nhưng đến Tràng An (Ninh Bình) thì gặp quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bồ Cô. Nghĩa quân chém tướng giặc là Lữ Nghi. Mộc Thạnh trốn thoát về Đông Quan sau đó lại từ Đông Quan đem quân trở lại tấn công. Nghĩa quân Đặng Tất đại bại. Cơ nghiệp nhà Trần sắp được khôi phục mà hỏng. Đã thế, năm sau Nguyễn Mộng Trang lại xúc xiểm với nhà vua là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân độc quyền trong thưởng phạt cần sớm trừ khử. Giản Định Đế nghe theo giết chết hai ông. Con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị uất ức, bèn đem quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa rước cháu Nghệ Tông là Trần Quí Khoáng về Nghệ An tôn làm vua lấy niên hiệu là Trùng Quang tiếp tục chống giặc. Nhưng bị quân Minh do Trương Phụ chỉ huy tấn công. Vua phải chạy vào Thuận Hóa. Nguyễn Súy và Đặng Dung (con Đặng Tất) đánh trả nhưng thất bại. Cả vua và Súy Dung bị bắt giải về Bắc Kinh. Dọc đường vua nhảy xuống sông tự vẫn. Súy Dung cũng bị chết. Tác giả cho Đặng Tất ít học nên không đủ mưu kế đối phó với giặc. Chê Giản Định đế đang chống giặc mà nghe lời xúc xiểm giết người có công. Riêng với vua Trùng Quang và hai tướng Súy Dung thì tác giả lấy lại lời tôn vinh của vua Tự Đức: "Vua tôi chết vì xã tắc. Thật làm sáng chói ngàn đời vậy".

3Nguyễn Xí: Quê Thượng Xá, Nghi Lộc, Nghệ An được thời nay mệnh danh là "Người hai lần khai quốc" dựa theo Sắc phong thần của vua Lê Thánh Tông từng ghi công: "Bình Ngô khai quốc tịnh nạn trung hưng". Trong tiểu thuyết Trùng Quang Tâm sử (có lúc ghi là Hậu Trần dật sử) viết và in ở Trung Hoa năm 1922. Nội dung là lịch sử chống giặc Minh của vua Trần Quí Khoáng niên hiệu Trùng Quang trên đất Nghệ An thời hậu Trần. Tác phẩm có 50 nhân vật anh hùng từ đủ tầng lớp, có quan cũ có dân thường, có nam có nữ, có nhân vật lịch sử, có nhân vật hư cấu. Riêng về nhân vật Nguyễn Xí thì do tác giả dùng bút pháp phi sử của tiểu thuyết lịch sử hiện đại mà có mặt ở đây trong khi Nguyễn Xí là người của Lam Sơn khởi nghĩa sau đó. Tác giả đã xây dựng nhân vật ông Xí là con nông dân nghèo, từ bé đã rất căm giận giặc xâm lăng và nói với cha "con thề sẽ giết hết giặc Ngô". Sau là Tư lệnh nghĩa quân Trùng Quang có mặt từ đầu đến cuối tác phẩm. Nghĩa quân Trùng Quang cuối cùng thất bại. Lời kết của tác phẩm: "Vĩ đại thiệt!!! Xã hội đúc nên anh hùng. Sinh hùng tạo nên thời thế. Vì nhân mà được quả. Rồi do quả lại sinh ra nhân. Chúng ta đọc sử đến đoạn vua Lê dẹp giặc Ngô lấy lại nước Việt ai không đáng được ngợi ca. Dân ta ơi! Đồng bào ta ơi! Dậy! Dậy! Dậy!".

4. Nguyễn Du (Hà Tĩnh): Có mặt ở bài Về chú ý câu Kiều đăng Báo Trung Lập năm 1931. Nội dung trả lời nhà báo Yên Sơn phỏng vấn tác giả về chuyện năm 1924 chủ bút Nam Phong phát động phong trào sùng bái Truyện Kiều mà bị chí sĩ Ngô Đức Kế về sau (1930) là chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng lên án về tội lôi kéo thanh niên vào tháp ngà văn chương mà quên nghĩa vụ cứu nước. Phan Bội Châu vẫn yêu quí Nguyễn Du và Truyện Kiều, kể cả với chủ bút Phạm Quỳnh vẫn thừa nhận là người có hiểu biết, thậm chí còn hơn mình nhưng Cụ không đồng tình với phong trào sùng bái Truyện Kiều ở chỗ đáng ra phải say sưa với lý tưởng anh hùng ở nhân vật Từ Hải thì lại say sưa với chuyện tình ái Kiều - Kim. Cụ cũng đồng ý dựng tượng Nguyễn Du nhưng trước hết hãy dựng tượng Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng..

 5Đinh Văn Chất: Quê Nghi Lộc, Nghệ An có mặt trong Việt Nam vong quốc sử ở chương thứ hai Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước. Viết và in năm 1905 ngay khi tác giả mới đặt chân trên đất Nhật Bản do Lương Khải Siêu khuyến khích viết. Nội dung như sau: "Người Nghệ An ứng chiếu khởi nghĩa. Quân thua bị bắt. Người Pháp bêu cả thây. Thây rữa ra. Học trò xin đem về chôn. Người Pháp chỉ cho thây. Còn đầu bị chặt lấy đem đốt. Hành vi của một cường quốc văn minh vốn là như thế đấy… Hai con trai, hai cháu gọi bằng bác, một con gái tuổi còn nhỏ đều bị Pháp giết. Nước văn minh vẫn thích giết như thế chăng. Ông Đinh trước xuất thân tiến sĩ, làm quan ở phủ Nghĩa Hưng rất được lòng quân dân, đánh nhau với quân Pháp thường thắng luôn. Pháp hạ được thành Nam Định nhưng không hạ được phủ Nghĩa Hưng. Nên Chất bị hình phạt thảm khốc như thế. Tôi ngờ là ai hết lòng yêu nước thì phạm vào cái hình luật nặng nhất của châu Âu chăng?".

6. Phan Đình Phùng: Quê Đức Thọ, Hà Tĩnh được nói đến nhiều chỗ nhưng rõ nhất là ở sách Việt Nam vong quốc sử, chương thứ hai: Tiểu truyện các chí sĩ lúc mất nước. Vốn là một thư sinh vượt khuôn khổ trường thi mà đậu đầu Đình thí, được bổ làm Ngự sử thì phải đương đầu với bọn quan lại bất chính. Vua Hàm Nghi xuất bôn ra Hà Tĩnh phát Hịch Cần vương, Phan đang cự tang mẹ vẫn chít khăn tang hưởng ứng Cần vương. Nhờ có Cao Thắng dũng khí, Cao Nguyễn Chanh mưu lược giỏi góp sức, được nhân dân khắp nơi hưởng ứng nên lập nhiều chiến công. Hoàng Cao Khải, người cùng làng tay sai của giặc dụ dỗ đầu hàng thì đáp lại bằng những lời đanh thép. Giặc đào mộ tổ tiên lên nhưng vẫn không khuất phục. Giặc dùng Nguyễn Thân quê Quảng Ngãi đàn áp giữa lúc Cụ đã lâm bệnh và qua đời. Cao Thắng, Nguyễn Chanh cũng không còn. Phong trào Cần vương của Phan Đình Phùng thất bại. Nguyễn Thân treo giải thưởng cho những ai biết nơi chôn cất cụ Phan. Được một tên Mọi chỉ chỗ. Chúng cho đào xác lên tẩm dầu đốt xác, dùng súng bắn tro xuống sông. Tác giả bình: văn mình Pháp mà lại xử sự với lãnh tụ Cần vương một cách dã man chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

7. Cao Thắng: Quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, có mặt trong tác phẩm Sùng bái giai nhân ở mục Truyện tráng sĩ Cao Thắng, viết in ở Nhật Bản năm 1907. Ông từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đỗ Như Mai năm 1874. Sau đó trong khi Phan Đình Phùng có ý định cầu viện nhà Thanh để chống Pháp thì đã mời cụ trở lại lãnh đạo phong trào Cần vương. Ông chiêu mộ nghĩa binh số đông là lục lâm hảo hán. Rất có tài thao lược. Nhiều lần dùng nghi binh cướp được lương thực và súng đạn của giặc. Tự đúc lấy súng ống chẳng thua gì súng ống của giặc. Giặc Pháp phải kinh hoàng, mệnh danh ông là "con hổ Thắng" (seigneur tigre). Lãnh tụ Phan Đình Phùng và Cao Thắng không còn, phong trào Cần vương này thất bại. Với tác giả Cao Thắng là vị tướng tài ba nhất trong phong trào khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, nếu đất nước có một trăm Cao Thắng thì thế nào giặc Pháp cũng phải cút. Cao Thắng so với một số anh hùng của thế giới thì chẳng thua ai.

8. Lê Bảo: Quê Nam Đàn, Nghệ An, có mặt trong Sùng bái giai nhân ở mục Tiểu truyện Lê Mao thuộc phần Phụ chép. Lê Bảo từ bé đã tỏ ra thông minh, khoáng đạt, không chịu ràng buộc, thích Lỗ Trí Thâm của Thủy Hử, Trương Phi của Tam quốc chí diễn nghĩa. Theo đạo Thiên chúa rồi gia nhập nghĩa quân của Cao Thắng. Lập mưu đánh cướp và giết Chủ sở Thương chính Nghệ An tại Vinh. Trong khi lập mưu bắt sống Đội Phiến để trả thù cho Cao Thắng, hai bên bắn nhau, Phiến chết, Lê Bảo hy sinh. Tác giả nói mình viết truyện này là bằng máu và muốn viết được hàng ngàn tráng sĩ nữa. Tác giả cảnh cáo những kẻ theo giặc hại nước phê phán những người đang chạy theo lối sống nói là văn minh nhưng thực chất là "văn minh da" chứ không phai "văn minh tủy". Phải biết phân biệt.

9. Bùi Chính Lộ: chính tên là Lê Mai, quê Thanh Thủy Nam Đàn Nghệ An có mặt trong truyện Tái sinh sinh - Truyện nhà cách mạng Bùi Chính Lộ viết năm 1917. Bùi Chính Lộ tham gia phong trào cách mạng do Phan Bội Châu lãnh đạo. Bị giặc Pháp bắt. Ông lập kế chết giả nhưng chôn thật rồi nhờ đồng chí đào lên và tiếp tục Đông du tham gia Quang phục hội. Bị giặc Pháp bắt lại, ông cắn lưỡi tự sát. Từ cuộc đời Bùi Chính Lộ, tác giả bàn luận về khái niệm phi thường với không biết bao nhiêu trạng thái trong cuộc sống, có phi thường cao cả, có phi thường bỉ ổi. Nói đến ba hạng người yểm thế xu thế cứu thế với tinh thần đề cao cứu thế. Bùi Chính Lộ là một tấm gương sáng chói của người cứu thế phi thường cao cả.

10. Đặng Thái Thân: Quê Nghi Lộc, Nghệ An là học trò xuất sắc của Phan Bội Châu cả về văn chương học vấn và chí khí cao cường. Phan Bội Châu Đông du muốn đưa ông đi theo. Ông xin ở lại trong nước để xây dựng phong trào. Từng vào Nam ra Bắc chiêu tập đồng chí. Là người cùng chú ruột là Đặng Tử Kinh đưa Hội chủ Cường Để sang Nhật. Là người gắn bó với cả hai phái cách mạng minh xã ấm xã. Năm 1910 bị giặc Pháp đưa 500 lính tập vây bắt ở Phan Thôn gần thành Vinh. Ông nhảy lên mái nhà để thoát nhưng không thể thoát, bèn dùng súng lục bắn trả giặc Pháp không ngờ lại bắn đúng hai lính Việt. Ông nói: Ta không muốn người Việt bắn người Việt mà nay lại là thế. Xong quay lại nổ đạn vào mình. Cái chết của ông trở thành lừng danh lịch sử. Các chí sĩ ở ngục Côn Đảo được tin đã mở một đợt sáng tác thơ ca ngợi ca.

11, 12. Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường: Cùng quê Nghi Lộc, Nghệ An được viết chung ở Việt Nam nghĩa liệt sử do Đặng Đoàn Bằng biên soạn, Phan Thị Hán (Phan Bội Châu) tu chỉnh viết và in năm 1917 tại Trung Quốc, ở mục Chép chung chuyện Nguyễn Đức Công, Nguyễn Thức Đường. Về sau trong Phan Bội Châu niên biểu cũng viết chung hai ông bởi đây là một cặp bài trùng cùng quê, cùng Đông du, cùng tham gia sáng lập Việt Nam quang phục hội, cùng có kế hoạch đưa lực lượng theo hai hướng khác nhau về nước lập căn cứ địa chống Pháp cùng bị bắt, cùng bị giam ở Hỏa Lò Hà Nội, cùng hiên ngang ra pháp trường, cùng bị bắn, chôn chung một mộ và trước mười họng súng của quân thù cùng để lại câu đối tuyệt mệnh được hậu thế cho là tiếng nói cao cả nhất trong văn chương yêu nước của loài người. Nguyễn Đức Công (Hoàng Trọng Mậu) được sách mệnh danh là Kỳ nam tử. Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) là con của bậc đại sư biểu Nguyễn Thức Tự, thầy học của Phan Bội Châu.

13. Nguyễn Quỳnh Lâm: Quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 1906 nhân dịp cụ Phan về nước, ông theo Cụ sang Nhật học ở ĐồngVăn thư viện. Gặp khó khăn về kinh tế, ông sang Xiêm rồi về Hà Tĩnh chiêu mộ nghĩa binh chống Pháp. Bị truy lùng, ông lại sang Trung Quốc rồi tham gia quân đội cách mạng của Trung Quốc và hy sinh năm 22 tuổi. Với tác giả, ông là người thất bại nhưng cái chí thì chẳng thua gì Galybandich, một anh hùng của Ý Đại Lợi nổi tiếng thế giới.

14. Lê Cầu Tinh: Quê Nghi Lộc, Nghệ An Đông du học tại Đồng Văn thư viện, được một năm thì không có tiền ăn học, đành sang Hương Cảng sau đó theo cụ Phan sang Xiêm. Thuở nhỏ đã tự chế tạo súng. Thấy súng Nhật rất tốt thì tìm cách chế tạo súng cho bằng súng Nhật. Thời ở Nhật vì rét quá mà ốm đau. Sang Xiêm bệnh tái phát lại có dịch nên qua đời. Có để lại di chúc cho các đồng chí.

15. Lê Khánh: Quê Nghi Lộc, Nghệ An rất thông minh học giỏi. Đã học trường Điện học và Chủng viện để thành cha cố giảng đạo. Nhưng rồi bỏ Đạo để cứu nước bằng cách cổ động một số giáo sĩ trong đó có Mai Lão Bảng. Đông du bị giặc Pháp kết án. Năm 1910, Ngư Hải bị giặc Pháp vây bắt, ông tìm cách cứu. Nhưng Ngư Hải đã phải tự xả súng vào mình để quyên sinh. Tác giả viết: "Thiệt là người trỗi của nước ta. Cũng là kiểu mẫu của tôn giáo".

16. Cù Sĩ Lương: Quê Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An thuộc dòng dõi Nho gia, tính tình khảng khái, ghét bất công, sẵn sàng giúp đỡ người gặp nạn. Từng là ông đồ dạy chứ Hán. Nhưng rồi giác ngộ, chán văn chương bát cổ, tham gia đảng cách mạng bạo động có nhiều đóng góp. Bị giặc Pháp bắt đày vào Hà Tiên và chết ở đây năm 37 tuổi. Viết về Cù Sĩ Lương cũng là dịp tác giả phê phán hạng người hủ nho chỉ biết ôm lấy văn chương bát cổ lỗi thời mà quên nghĩa vụ cứu nước.

17. Lê Văn Miến: Quê Nghi Long, Nghi Lộc, Nghệ An là một trong mấy người Việt Nam đầu tiên du học Pháp. Học xong không màng chốn quan trường nên chuyển sang học hội họa và trở thành vị thủy tổ về tranh sơn dầu Việt Nam. Về nước dạy học và được cử làm Tế tửu (Hiệu trưởng) Trường Quốc Tử giám ở Huế. Từng là thầy giáo của Nguyễn Tất Thành. Bức thư ngắn gọn của Phan Bội Châu gửi Lê Văn Miến viết xong tác phẩm Hiến pháp của nước Việt Nam muốn được Lê Văn Miến là người đầu tiên học vấn uyên thâm đọc và cho ý kiến. Lê Văn Miến đáp lại là đã đọc ngay và cho rằng nên bỏ hết vì hoàn cảnh đất nước nô lệ thế này thì làm gì có Hiến pháp. Trong thư hai bên đều gọi nhau là Tiên sinh. Chuyện này xẩy ra vào khoảng 1929 - 1930 tại Huế.

18. Phạm Hồng Thái: Quê Hưng Nguyên, Nghệ An được Phan Bội Châu viết riêng thành Truyện Phạm Hồng Thái in ở Trung Quốc năm 1925. Phạm quân xuất thân Nho gia, rất thông minh, mới mười tuổi đã  căm giận giặc Pháp xâm lược nên cưỡng lại ý muốn của gia đình, bỏ học khoa cử để học Trường Pháp Việt, rồi lại chán ghét nền giáo dục của thực dân. Được Nguyễn Quân (Nguyễn Ái Quốc) giác ngộ cách mạng theo đường lối giai cấp dựa vào công nông, nên vào làm việc ở nhà máy để giác ngộ công nhân, khuyến khích họ biểu tình trong khi cái chí giết giặc vẫn không nguôi. Năm 1924, nhân dịp Toàn quyền Đông Dương Méc Lanh công cán sang Trung Quốc, ông đã sang Trung Quốc liên hệ với Đảng cách mạng của Trung Quốc để mưu việc ném bom giết Meclanh ở Sa điện. Chuyện không thành, bị vây bắt, Phạm Quân đành nhảy xuống sông tự vẫn, gây chấn động dư luận trong nước và ngoài nước. Tôi nói thêm hiện ở Trung Quốc tại Đông Hưng giáp Móng Cái, Quảng Ninh có mộ Phạm Hồng Thái được nhiều người đến tưởng niệm.

19. Hồ Tùng Mậu: Quê Quỳnh Lưu, Nghệ An, một nhà cách mạng nổi tiếng đức độ, từng nhiều năm hoạt động ở Trung Quốc, có quan hệ thân tình với cụ Phan. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 dự cương vị lớn của đất nước. Cụ qua đời, Hồ Chủ tịch có bài ai điếu rất cảm động. Và đây là bức thư cụ Phan gửi Hồ Tùng Mậu, xưng là bác và cháu. Thư nhờ Hồ Tùng Mậu chuyển cho Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) về việc lập đoàn Thanh niên mà theo ý cụ Phan là "lấy làm phải lắm. Nếu như có chỗ nào giúp được thì bác cũng hết sức. Nhưng có hai câu ngạn ngữ bên Tây rằng: 1) Chẳng thà rằng thiếu chứ không nên làm quá. 2) Không trọn vẹn thì thà không có".

20. Nguyễn Ái Quốc: Thật là đặc biệt, có một không hai ở đất nước ta. Ở thế kỷ XX trên đất Lam Hồng địa linh nhân kiệt đã xuất hiện Phan Bội Châu tiếp theo là Nguyễn Ái Quốc, cùng quê Nam Đàn đều là lãnh tụ vĩ đại của đất nước đã có cuộc chuyển giao tuyệt diệu về đường lối cách mạng cứu nước để từ thất bại đến thành công rực rỡ. Đương thời ở quê hương vẫn lưu hành rộng rãi câu sấm của Trạng Trình: "Đụn Sơn phân giải, Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh" (núi Đụn như tách hai do có khe nước chảy ồ ồ xuống sông Lam như bò đái/ Khe Bò Đái cạn nước hết chảy nên không còn tiếng ồ ồ đó nữa thì Nam Đàn có Thánh xuất hiện). Nhiều người vẫn cho rằng Thánh đây là Phan Bội Châu. Theo học giả Đào Duy Anh từng sống ở Huế gần gũi cụ Phan thì nhân dịp có người ở quê vào Huế thăm Cụ đã đưa chuyện đó ra nói thì Cụ nói: tôi không phải là Thánh của Nam Đàn. Thánh của Nam Đàn là Nguyễn Ái Quốc. Chuyện truyền ngôn là thế. Còn trong văn bản thì ngoài những gì có về Nguyễn Quân được nói ở Truyện Phạm Hồng Thái (mà nhà chuyên gia về Phan Bội Châu là Chương Thâu cho rằng cụ Phan lầm), còn có Thư gửi Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) viết ngày 13 tháng 3 năm 1925 đáp lại thư Lý Thụy gửi cho Cụ trong đó nói: "Nhớ lại khi trước, tôi đến nhà cháu uống rượu ngâm thơ. Lúc bấy giờ tôi cũng không ngờ rằng sau 20 năm cháu giỏi đến thế này. Bây giờ tôi bì với cháu thì xấu hổ nhiều lắm".

 

Linh Nhi

Ẩm thực không chỉ phản ánh tính cách, tình nghĩa, lối sống, triết lý nhân sinh, trình độ văn hóa của chủ thể ẩm thực mà còn mang đậm bản sắc và tạo nên sắc thái riêng biệt từng địa phương, từng dân tộc. Ẩm thực Việt Nam là cách gọi chung của phương thức chế biến món ăn, chế biến gia vị những thói quen ăn uống trên đất Việt Nam, nó là món ăn thức uống, cách thức ăn uống, phong tục ăn uống đặc trưng của từng địa phương từng dân tộc truyền lại, nó mang bản sắc văn hóa của người Việt Nam từ bao đời nay.

Xứ Nghệ từ lâu đã nổi tiếng là vùng đất đầy khắc nghiệt, vì vậy con người ở đây đã sớm tạo cho mình bản lĩnh và tính cách riêng. Trong văn hóa ẩm thực cũng có những đặc trưng riêng mang đậm phong cách của con người xứ Nghệ. Nếu như người Hà Thành hào hoa nổi tiếng sành ăn với các món ngon đặc sản thì người miền Trung chất phác, cần cù lại nổi tiếng bởi chính những món ăn dân dã hàng ngày. Đó là đĩa mắm, chén cà, là dưa muối, nhút muối, rau vác... Những món ăn bắt nguồn từ các loại rau, củ, vật phẩm hết sức bình thường, nơi nào cũng có nhưng ở xứ Nghệ lại nổi lên như một đặc trưng, để rồi ai đã từng đến đây, gắn bó với mảnh đất và con người nơi đây đều cảm nhận được những đặc sắc của nó.

Ai về ăn nhút Thanh Chương

Dừng chân nếm thử vị tương Nam Đàn

Không hoa văn, màu mè, cầu kỳ trong chế biến, các món ăn ở xứ chân chất như chính những người dân cần cù, lam lũ nơi đây, để rồi đi vào thơ ca khiến ai đã từng thưởng thức không thể nào quên. Và trong cách chế biến phần nào đã thể hiện rõ đặc trưng miền đất và con người xứ Nghệ mộc mạc, bình dân trong ăn uống. Những món nổi tiếng nhất ở xứ Nghệ lại là những món bình dị nhất như nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, lươn xứ  Nghệ,… những món ăn mang cả hồn cốt của con người xứ Nghệ.

Nhút thực ra là món dưa muối chua mà vật liệu chính là mít non và xơ mít, những thứ tưởng như không ăn được nhưng người Nghệ An đã biết tận dụng và chế biến nó thành một món ăn thay rau chấm với tương tự làm rất thú vị mà chỉ riêng xứ Nghệ mới có.

Ở Nghệ An có nhiều làng quê làm nhút, nhưng ngon nổi tiếng hơn cả là "nhút Thanh Chương". Nhút có nhiều loại như nhút thập cẩm gồm rau cải, măng, hoa chuối và nhút mít, trong đó, làm phổ biến nhất là nhút mít. Về Thanh Chương ngoài đặc sản "nước chè xanh Thanh Thủy" còn có mít. Ngày xưa mít được trồng hầu hết trong vườn các gia đình. Mít là loại cây chịu hạn tốt, sinh trưởng chủ yếu trên vùng đất đồi núi. Ngoài lấy quả, mít còn được trồng để lấy gỗ. Vào mùa mít chín, ngoài dùng múi và hạt để ăn, bà con nơi đây đã có sự sáng tạo trong việc tận dụng xơ mít để làm nhút.

Nếu đã từng nghe kể về "Sự tích Nhút", sẽ càng yêu, càng thương hơn vùng quê xứ Nghệ. Ngày trước, miền quê nghèo gió Lào cát trắng, cỗi cằn đá sỏi Thanh Chương cơm gạo nhà nào ăn cũng không đủ no, phải độn ngô, độn sắn mà vẫn thiếu, vẫn đói. Thế là người dân đã luộc mít - thứ quả nhà nào cũng sẵn có, chấm với Chẻo - một thức chấm rất độc đáo của người Nghệ, để ăn thay cơm.

Nhưng mít chỉ có duy nhất một mùa trong năm, vì thế họ nghĩ đến việc muối mặn ăn dần quanh năm. Món Nhút đã được hình thành, sống với con dân quê từ thuở đói nghèo như thế cho đến tận hôm nay, và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có thức ăn nào thay thế nổi… Vì thế, người dân Thanh Chương vẫn thường truyền nhau câu hát thân thương: "Ngái ngôi chi mà anh nỏ về/ Hay là vì anh chê quê em nghèo đói/ Hay anh chê em vụng về câu nói/ Đất Thanh Chương nhút mặn chua cà/ Chắc có lẽ rứa mà anh chê/ Chắc có lẽ rứa mà anh nỏ về….". Xứ Nghệ đậm đà và mặn mà vì tình nghĩa, và phải chăng vì Nhút nữa!

Thực ra, món nhút ra đời cũng bắt nguồn từ cuộc sống vất vả, khó khăn của người dân nơi đây. Với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, cuộc sống sinh hoạt của con người nơi đây không đầy đủ sung túc. Cái ăn cái mặc luôn là vấn đề toan tính hằng ngày. Trong điều kiện như vậy, người dân đã hình thành nên những tính cách đặc trưng, họ chịu khó chịu khổ bền bỉ trong lao động sản xuất, cần cù và tiết kiệm trong sinh hoạt, anh dũng trong chiến đấu, nhân hậu trong đối xử với mọi người. Cộng thêm với bản tính siêng năng, chịu khó, chắt chiu, tiết kiệm của người Nghệ "ăn khi lành để dành khi ốm", người Nghệ đã biết tận dụng nguồn lương thực, thực phẩm rau, củ, quả dồi dào của mùa vụ chế biến thành những món ăn để dùng ăn dần và trở thành món ăn đặc sản. Nhút là món ăn xuất phát từ đó.

Để muối nhút, trước hết dùng quả mít xanh, đặc biệt loại "mít ương" tức là mít già, gần chín làm nhút càng ngon. Mít được hái xuống từ trên cây, đem gọt sạch vỏ ngoài, rửa cho hết nhựa rồi bỏ vào nong hoặc nia, dùng dao băm, thái nhỏ thành sợi, sau đó, đem phơi nắng vài ba tiếng đồng hồ cho nhút héo thì cho muối, thính ngô vào, dùng tay trộn đều cho mềm ra. Cuối cùng bỏ vào vại sành, đặt vỉ vào, dằn đá cho nén xuống, đổ nước muối loãng vào cho ngập vỉ, đậy nắp che bụi và ủ kín.

Nhút thường muối khoảng một tuần là ăn được. Khi lấy nhút ra, ta sẽ thấy màu trắng vàng của nhút hòa lẫn với màu vàng của thính ngô, màu trắng của nước, muối và mùi thơm của nhút tạo nên nét đặc trưng riêng của món ăn. Nhút thường được người dân dùng để ăn bằng cách dùng tay lấy nhút, vắt hết nước, cho vào đĩa chấm với nước tương, nước chẻo, hay nước mắm pha ớt, tỏi kèm rau thơm trong đó không thể thiếu lá tía tô và kinh giới; ăn nộm với các gia vị như vừng, lạc rang lên giã nhỏ trộn với lá chanh thái chỉ và một số loại rau thơm như lộc quế, húng quế, tía tô, kinh giới, rau ngổ, đinh lăng thái nhỏ và thêm hoa bắp chuối rừng thái mảnh trộn vào càng ngon… hoặc nấu dấm, nấu canh chua với lạc giã nhỏ, cá lóc, có thêm các gia vị như ớt, mùi tàu.v.v.

Món nhút Thanh Chương dù rất giản dị, chân phương bởi được nấu từ những sản vật gần gũi nhưng trở thành nét văn hoá đặc trưng cho vùng đất này, thành niềm nhớ, niềm thương của những người con xứ Nghệ khi xa quê. Và nhút Thanh Chương cũng để lại ấn tượng khó phai của người khách có dịp ghé qua miền Nghệ An nắng gió mà khi trở lại phải tìm ăn cho bằng được. Sau cùng bữa ăn, người ta sẽ dùng một bát nước chè xanh nóng để tráng miệng. Bát chè tươi khéo hãm, màu nước trong xanh, đậm đà mà không quá chát, mùa đông có thể thêm vài lát gừng cho ấm bụng, cũng là một nét đáng yêu vẫn hay được nhắc đến trong những đồ ăn, uống của người xứ Nghệ, giản dị như vậy thôi nhưng mang bản sắc của một vùng quê nổi tiếng. Người xa quê mỗi lần mường tượng lại những tháng ngày thơ bé hẳn không thể quên được hình ảnh một chiếc chõng tre, ấm chè xanh nóng hổi, bà con chòm xóm sau một ngày lao động mệt nhọc quây quần bên nhau nói chuyện tỉ tê. Một nét đẹp dung dị nhưng có lẽ đã trở thành văn hóa làng quê Nghệ.

Tìm hiểu về ẩm thực xứ Nghệ là về với cội nguồn xa xưa với nét bình dị, với những món ăn hết sức quen thuộc đó là nét đặc trưng ở vùng quê này. Những món ăn ấy thể hiện cuộc sống thanh bình gần gũi với tự nhiên của người xứ Nghệ. Đó cũng chính là tính cách cần cù chịu gian khổ để vươn lên trên cuộc sống còn nhiều khó khăn. Ngày nay, ẩm thực Nghệ đã trở nên đa màu sắc, bên cạnh những món ăn đạm bạc dân dã được điểm tô bởi nhiều thức quà và đặc sản khác. Đối với nhân dân xứ Nghệ nói chung và người Nghệ An nói riêng việc giữ gìn và phát huy văn hóa ẩm thực quê nhà chính là tình yêu và lòng tự hào quê hương, về các truyền thống tốt đẹp củ

"Đại hội tỉnh Đảng bộ Nghệ An khóa XIX diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, do đó, có sứ mệnh đặc biệt"

 

LTSĐại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX dự kiến tổ chức vào tháng 11 năm 2020, đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của tỉnh. Từ nay đến khi Đại hội diễn ra Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ XVIII tổ chức lấy ý kiến góp ý của các nhà khoa học, các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước là người Nghệ An nhằm xây dựng Dự thảo Báo cáo Chính trị.

Để góp thêm ý kiến vào Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Chuyên san KHXH&NV Nghệ An có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Đình Thiên - thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, Tổ phó Tổ tư vấn kinh tế - xã hội của tỉnh một số nội dung trong bản Dự thảo Báo cáo.

*   *   *

Phóng viênXin chào PGS.TS Trần Đình Thiên, năm 2020 là năm diễn ra Đại hội Đảng các cấp, trong bối cảnh Thế giới rất đặc biệt tác động đến toàn cầu, PGS.TS có thể khái quát những vấn đề đặc biệt của thế giới và tác động của nó đến quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Chưa bao giờ thế giới ở vào tình thế, bối cảnh phát triển đặc biệt như hiện nay với hàng loạt biến cố lịch sử to lớn và những xu hướng chuyển biến có giá trị xoay chuyển thời đại. Đó là: Cách mạng Công nghiệp 4.0, chuyển loài người sang một thời đại công nghệ hoàn toàn mới; Quỹ đạo Toàn cầu hóa với những xu hướng mới và khác - sự trỗi dậy mạnh mẽ chưa từng thấy của các nước lớn đi sau; sự phục hồi chủ nghĩa dân tộc, xung đột và chiến tranh trên nhiều phương diện; Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh khốc liệt, diễn ra trong không gian toàn cầu hóa và công nghệ cao, mang tính toàn cầu, diễn biến bất thường, khó lường, gây tác động tiêu cực to lớn chưa từng thấy.

Bối cảnh này đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, nhiều bất thường và khó dự đoán. Nó làm thay đổi hoàn toàn các điều kiện nền tảng, nguyên lý vận động và giải pháp phát triển của loài người. Cả thế giới, từng quốc gia, từng địa phương và mỗi cá nhân phải xác lập tầm nhìn và cách tiếp cận phát triển mới; phải có chiến lược sinh tồn và phát triển thích ứng với điều kiện mới.

Tuy nhiên bên cạnh thách thức chưa từng thấy, bối cảnh thế giới hiện nay cũng tạo nên những cơ hội hiếm có để phát triển, đặc biệt là đối với các nước đi sau tiến vượt lên. Việt Nam là nước đi sau, Nghệ An là tỉnh mới chưa phát triển, nhưng với 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) đã được ký kết, trong đó có 2 Hiệp định hế hệ mới là CPTPP và EVFTA, Việt Nam có nền kinh tế với độ mở cửa thuộc loại sâu rộng nhất thế giới. Đang đứng ở "trung tâm hội nhập" của thế giới, Việt Nam sẽ là tọa độ có nhiều cơ hội lớn hiếm có nhưng cũng sẽ phải chịu nhiều sóng gió và va đập nhất từ các xu thế thời đại.

Đó chính là lý do khách quan để Việt Nam, Nghệ An cần nhận diện lại thời đại, tư duy lại cách tiếp cận phát triển, xác lập tầm nhìn mới, xây dựng chiến lược phát triển với tầm - thế và đích mới. Sứ mệnh đó cũng được đặt ra cho Đại hội Đảng lần này ở các cấp, đồng thời giao phó cho Đại hội Đảng lần này trọng trách mới.

Đó là sau 35 năm đổi mới thành công, sau 10 năm tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, đất nước đứng trước nhu cầu đổi mới căn bản, cấp bách. Hiện nay, nguy cơ tụt hậu phát triển của nước ta so với thế giới vẫn chưa được giải quyết, thậm chí có nhiều mặt còn trầm trọng và gay gắt hơn.

Đại hội lần này, cả cấp Toàn quốc lẫn cấp Tỉnh, có sứ mệnh nhận diện đúng bối cảnh và tác động; xác lập tầm nhìn phát triển mới, xác định đường lối và các quyết sách chiến lược lớn giúp đất nước và Nghệ An tiến vượt, thu hẹp nhanh khoảng cách tụt hậu phát triển, trở nên tự cường, dân chủ và thịnh vượng.

Nghệ An là địa phương mà nền tảng phát triển có hai yếu tố nhận diện đặc trưng. Một là, tính đặc sắc và sự khác biệt (nền tảng: tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên văn hóa - lịch sử - con người, lợi thế - vị thế, cơ cấu ngành lựa chọn). Hai là, độ mở cửa, liên kết và hội nhập phát triển (định hướng phương thức phát triển: liên kết vùng và liên kết quốc tế hiện đại).

Nghệ An là địa phương được Bộ Chính trị "đặc biệt" định vị phát triển bằng một Nghị quyết  riêng (NQ-26 Bộ Chính trị). Bám sát định vị này, phải coi đây là trục chính để tổng kết đánh giá và lựa chọn quyết sách cho phát triển của Tỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt và khác thường của tình hình thế giới và bối cảnh phát triển, cách tiếp cận tổng kết và xác định đường lối tương lai của Tỉnh phải vượt tầm, không nên và không thể chỉ bó hẹp trong khoảng thời gian chỉ 5 năm. Cách nhìn nhận vấn đề, các ý tưởng phát triển nên được mở rộng, xuyên suốt, từ tầm nhìn thời đại mà tổng kết và xác định phương hướng phát triển 5 năm. Làm được như vậy, các vấn đề của 5 năm trước và sau Đại hội sẽ được nhận diện có chiều sâu, mang tính hệ thống - khách quan hơn.

Phóng viên: Trong bối cảnh đặc biệt hiện nay Nghệ An phải đối diện với những thách thức cao hơn khi mà quy mô kinh tế nhỏ, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chưa cân đối được thu - chi, GRDP đầu người mới bằng 2/3 cả nước, theo PGS tổng kết nhiệm kỳ 2015 - 2020 cần phải nhận diện những vấn đề gì? Dự thảo Báo cáo đã thể hiện đầy đủ chưa?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Nhiệm kỳ này, Nghệ An phải nhận diện thật khách quan và thật rõ thực trạng hiện tại (là gì, đang ở đâu), phải xác định đúng thực lực và lợi thế, điểm yếu và điểm mạnh, không thể chỉ "kê biên" những việc đã làm, thống kê thành tích, liệt kê những gì chưa làm được trong mấy năm qua, cũng không phải nặng phê phán, chỉ trích, chê bai. Mục tiêu chính là nhận diện đúng "thực trạng - có vấn đề" để tìm phương hướng giải quyết phù hợp.

Việc tổng kết là cần thiết, nhưng để làm nền tảng định hình chính xác khát vọng phát triển, tạo cơ sở để hoạch định một chiến lược "đúng tầm thời đại", việc tổng kết không thể chủ yếu tập trung kê biên thành tích của 5 năm qua cộng với một số điểm "tuy nhiên, nhưng mà" theo cách viết báo cáo truyền thống. Mục tiêu của tổng kết cần làm rõ thực lực kinh tế - xã hội (bao gồm thực lực kinh tế - xã hội, năng lực thể chế - bộ máy, các điều kiện phát triển nền tảng - hạ tầng, nhân lực, công nghệ) của Nghệ An với tư cách là "năng lực xuất phát" cho "cuộc đua" mới. Nghĩa là cần phân tích sâu, đánh giá khách quan và nhận diện chính xác những năng lực phát triển cơ bản mà Nghệ An đang sở hữu so với 10-20 năm trước (để xác định Nghệ An đã thực sự tiến đến đâu, đang ở đâu?), tạo thành nền tảng xuất phát cho giai đoạn mới (để xác định năng lực đáp ứng các yêu cầu phát triển hiện đại, thông qua việc đánh giá thực lực và trình độ các lĩnh vực: cơ sở du lịch hiện đại (đẳng cấp cao), đô thị - hiện đại hóa và bản sắc, hạ tầng kết nối và các tuyến liên kết phát triển vùng - quốc tế (sân bay quốc tế, các tuyến đường kết nối), môi trường kinh doanh, lực lượng doanh nghiệp, sức hấp dẫn đầu tư, v.v.).

Về đánh giá tổng quát: Cần nhận diện những nền tảng phát triển mới của Nghệ An như: Hạ tầng kết nối, hạ tầng công nghiệp, hạ tầng đô thị, nhân lực, doanh nghiệp, ba tuyến phát triển ưu tiên được nêu trong NQ- 26 BCT, đặc biệt thành phố Vinh, đô thị trung tâm - thủ phủ vùng; Những yếu tố giúp định hình cấu trúc phát triển hiện đại của tỉnh: Công nghiệp (bước tiến quy mô và đẳng cấp), du lịch, nông nghiệp (đặc sản, chuỗi sản xuất,...);

Đặc biệt đánh giá vai trò, chức năng của Nghệ An trong phát triển quốc gia và vùng (các địa phương lân cận), có thể trở thành trung tâm vùng Bắc Trung bộ.

Cần làm rõ trong nhiệm kỳ qua: Việc phát triển thành phố Vinh có được đặt đúng hướng và đúng tầm NQ26-BCT là xây dựng Vinh trở thành thủ phủ vùng Bắc Trung bộ, với 10 chức năng vượt trội? Việc lựa chọn phát triển thị xã Thái Hòa, Hoàng Mai đã đúng hướng, đúng tầm để phát huy đầy đủ lợi thế? Miền Tây Nghệ An đã tìm được hướng phát triển mới với các sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao? ...

Từ việc tổng kết và đánh giá đó xác định đúng những điểm khuyết và yếu trong cấu trúc phát triển của Nghệ An trên quan điểm hiện đại - trình độ cơ cấu ngành, hiện trạng thu nhập , chất lượng nguồn nhân lực, tình trạng lực lượng doanh nghiệp, năng lực hệ thống thể chế - bộ máy, v.v. Đây là góc độ nhận diện thực trạng - thực lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc lựa chọn các quyết sách chiến lược cho tương lai.

Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ thực lực, cần đánh giá thêm thực trạng 2 tuyến vấn đề:

Thứ nhất, Nghệ An đã tận dụng thật tốt tiềm năng - lợi thế của tỉnh chưa? Hay tỉnh đã có chiến lược tạo lập các điều kiện tiền đề để khai thác hiệu quả tiềm năng - lợi thế (nhân lực, hạ tầng kết nối, hạ tầng đô thị, lực lượng doanh nghiệp - các nhà đầu tư chiến lược) cho giai đoạn tới?

Thứ hai, Nghệ An đã xác lập, triển khai và thực hiện chức năng phát triển vùng - quốc gia của Nghệ An - trên 3 cấp độ: 1) trung tâm hội tụ - lan tỏa phát triển vùng Bắc Trung bộ;  2) trung tâm dẫn dắt phát triển hiện đại của vùng Bắc Trung bộ; 3) chủ động tổ chức liên kết phát triển - như thế nào?

Bên cạnh đó, ngoài việc xác định rõ nguyên nhân thành công, cần đặc biệt mổ xẻ nghiêm túc và khách quan các nguyên nhân "chưa thành công" mà theo tôi, có mấy điểm cần lưu ý là:

-  Tầm nhìn phát triển Nghệ An và TP. Vinh chưa bảo đảm tận dụng tốt "lợi thế" mà NQ-26 trao cho;

-  Thiếu cơ chế, chính sách đột phá để thu hút các nhà đầu tư chiến lược đẳng cấp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp, lôi kéo người giàu, người giỏi, nhân tài của Nghệ An về phát triển Nghệ An;

-  Còn bị trói buộc, hạn chế của nhiều cơ chế, chính sách chung nên tỉnh không thể chủ động, khó chịu trách nhiệm đến cùng, khó sáng tạo và linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành;…

Đặc biệt, Nghệ An cần chú ý các bài học về "Tầm nhìn" kết hợp "Nắm bắt cơ hội" để tiến vượt bậc; về liên kết phát triển vùng;…

Phóng viên: Vậy thưa PGS, từ thực trạng của Nghệ An hiện nay, đặt trong bối cảnh đặc biệt của thế giới, về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp đã xác định, Dự thảo Báo cáo cần phải bổ sung thêm những nội dung gì để Nghệ An vượt qua thách thức, tiến vượt trong những năm tới?

PGS.TS Trần Đình Thiên:

Trước khi xác định mục tiêu, cần chú ý làm rõ "Bối cảnh phát triển và tác động". Như đã nói, thế giới và thời đại rất khác. Trong khi đó, Nghệ An mở cửa - hội nhập ngày càng sâu rộng. Do vậy, nhận diện bối cảnh phát triển càng rõ, thì tầm nhìn càng sáng, đánh giá tác động càng chuẩn, đề xuất chiến lược và giải pháp càng có căn cứ.

Viết "Bối cảnh" tốt là để thể hiện tầm nhìn, cách tiếp cận phát triển mang tính thời đại, để thoát khỏi cách viết cũ, chỉ viết mấy dòng cho có, thì chưa phù hợp với tư duy thời mở cửa - hội nhập, tư duy phát triển vùng chưa được coi trọng.

Trong nội dung "Bối cảnh", cần khái quát 3 yếu tố sau:

1. Thời đại (CMCN-4.0, Thời đại kinh tế số, Đô thị thông minh);

2. Thế giới (Toàn cầu hóa, mở cửa - hội nhập được đẩy mạnh với những động thái mới; xung đột Mỹ - Trung; dịch chuyển các chuỗi sản xuất - thương mại toàn cầu, nhu cầu sản phẩm và nhu cầu du lịch của thế giới thay đổi, v.v.);

3. Môi trường tự nhiên (biến đổi khí hậu, dịch bệnh, thiên tai, v.v.);

Cũng phải đánh giá đúng các vấn đề của Việt Nam, được hiểu như là bối cảnh và điều kiện phát triển của Nghệ An - Thế mới, lực mới, khát vọng tiến vượt, đuổi kịp, nỗ lực đẩy mạnh cải cách, thực trạng phát triển doanh nghiệp, v.v.

Bối cảnh mới, rất mới và khác tạo điều kiện và cơ hội, đồng thời buộc Nghệ An phải đổi mới cách tiếp cận phát triển, tư duy chiến lược và hành động trong giai đoạn mới.

Phóng viên: PGS nói gì về tầm nhìn chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Nghệ An trong giai đoạn tới?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Tôi nghĩ trước khi bàn đến tầm nhìn, mục tiêu, nhiệm vụ, sau khi làm rõ bối cảnh và tác động, cần nhận diện lại các lợi thế phát triển của tỉnh. Điều kiện phát triển mới, thời đại thay đổi thì lợi thế - bất lợi thế cũng khác. Kết hợp với các lợi thế vốn có, Nghệ An có tổ hợp lợi thế phát triển mới: Lợi thế quy mô, lợi thế đi sau, lợi thế được chọn là Trung tâm - thủ phủ phát triển của vùng Bắc Trung bộ, lợi thế đặc sắc lịch sử - văn hóa - con người. Tổ hợp lợi thế đó quy định tính độc đáo, khác biệt trong lựa chọn chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của Nghệ An trong giai đoạn tới.

Đối với mục tiêu và phương hướng phát triển, cần nhấn mạnh khát vọng phát triển của Nghệ An - sẽ có "chân dung" thế nào sau 10 năm, trên cơ sở đó, cụ thể hóa mục tiêu cho 5 năm tới; Cần chú trọng các định hướng (giải pháp) chiến lược: hiện đại hóa, tạo khác biệt, liên kết hội nhập, đột phá - đổi mới - sáng tạo, tức là những giải pháp cho phép đạt được mục tiêu. Ví dụ: Sau 10-15 năm, Nghệ An thịnh vượng và hiện đại, phát triển bền vững trên nền tảng công nghệ cao, môi trường trong lành, có thương hiệu mạnh, là Trung tâm đổi mới - sáng tạo của vùng Bắc Trung bộ; còn sau 5 năm (đến 2025), xây dựng Nghệ An thành Trung tâm hội tụ nguồn lực phát triển chất lượng cao của vùng, có sức hấp dẫn đầu tư và hấp dẫn du khách mạnh. Đấy là tôi nói ví dụ, căn cứ vào sự hiểu biết hạn hẹp của tôi về Nghệ An.

Về Mục tiêu, nên xác định các mục tiêu lớn cho các lĩnh vực: Kinh tế - xã hội - môi trường, đáp ứng 2 tiêu chuẩn cơ bản: đẳng cấp - trình độ phát triển (so với Nghệ An hiện tại và so với các địa phương khác) và tính bền vững.

Tuy nhiên, các mục tiêu phải đủ cụ thể, là đích phát triển mà Đảng bộ Nghệ An cam kết đạt được với dân Nghệ An, với Trung ương. Đó là: cấu trúc ngành dịch chuyển theo định hướng (trên nền tảng) phát huy lợi thế và công nghệ cao như thế nào? Phát triển thành phố Vinh trở thành đô thị - thủ phủ vùng hiện đại, thông minh, sáng tạo và bản sắc như thế nào? Rồi chân dung các đô thị - kết nối phát triển như Thái Hòa và Hoàng Mai; Sân bay Vinh là sân bay quốc tế kiểu gì? Về mục tiêu xã hội: Nghệ An có định xây dựng thành hình mẫu địa phương hội nhập quốc tế, văn minh, bản sắc hay không? v.v.

Xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025, cần đề cập đến các vấn đề "có vấn đề". Nghệ An muốn rút ngắn khoảng cách tụt hậu thu nhập thì phải tính đặt mục tiêu "thu hẹp" khoảng cách tuyệt đối GDP/người hay thu nhập. Trong Dự thảo Báo cáo, mục tiêu GDP đề xuất chưa thể hiện rõ khát vọng phát triển và quyết tâm hành động của Nghệ An: Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2021-2025 cao hơn mức trung bình cả nước là "đúng nhưng chưa đủ", vì do xuất phát điểm thấp hơn nên trong quãng thời gian ngắn, Nghệ An có thể chưa thu hẹp tuyệt đối khoảng cách tụt hậu. Khi đó, Nghệ An phải đặt thêm mục tiêu: "giai đoạn 2020-2025, Nghệ An đặt nhiệm vụ tạo lập các điều kiện nền tảng để bứt phá phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo, để nhanh chóng tiến kịp các địa phương đi trước",…

Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Đây là nội dung đặc biệt quan trọng vì tính thực chất của nó (xác định các ưu tiên chiến lược). Vì thế, cần được luận chứng và luận giải đủ rõ (chi tiết, các luận cứ và các nội dung lớn của Nhiệm vụ và Chương trình), gắn với cách tiếp cận "phát huy tiềm năng, lợi thế để đột phá phát triển".

Trong Dự thảo, các nhiệm vụ phát triển ngành được viết khá chi tiết. Tuy nhiên, tôi thấy phải nhấn mạnh hơn khía cạnh "trình độ, đẳng cấp ngành" (khía cạnh công nghệ cao, kết cấu chuỗi và định hướng thị trường thế giới", đặc biệt cho các sản phẩm chủ lực ngành của Tỉnh. Ngoài ra, cần bổ sung nhiệm vụ - mục tiêu phát triển đô thị (hay đô thị hóa) với tư cách là trục quyết định hướng hiện đại hóa, tiến vượt lên của Tỉnh. Có đô thị hóa - hiện đại hóa thì mới có Trung tâm đổi mới - sáng tạo, Trung tâm tăng trưởng (liên kết phát triển công nghiệp - dịch vụ đẳng cấp); mới thực hiện được nhiệm vụ "tăng tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP lên 45-50% năm 2025", v.v.

Cũng cần xác định rõ, dứt khoát nhiệm vụ "phát triển vùng kinh tế miền Tây" là nhiệm vụ ưu tiên chiến lược mang tính đột phá trong giai đoạn tới. Đây là một trong những nền tảng cơ bản để Nghệ An bứt phá trên cơ sở tận dụng tiềm năng lợi thế đặc thù - đặc sắc trong khuôn khổ một Chương trình Phát triển đặc biệt: kết hợp giữ vườn rừng Quốc gia với phát triển nền nông nghiệp đặc sắc, giá trị gia tăng cao.

Do "đặc thù địa linh nhân kiệt", con người là thế mạnh nhất, lại đúng vào thời đại công nghệ cao, trí tuệ - sáng tạo, Nghệ An cần phải đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ "Phát triển giáo dục - đào tạo" và "Khoa học, công nghệ", coi đây là hai nhiệm vụ chiến lược ưu tiên hàng đầu. Tôi có cảm tưởng Nghệ An chưa định vị đúng các yếu tố quyết định phát triển hiện đại này trong sơ đồ chiến lược của mình.

Đối với nhiệm vụ "Phát triển doanh nghiệp và kinh tế tập thể", nên tập trung đối tượng cho một nhiệm vụ ưu tiên: "Phát triển lực lượng doanh nghiệp và thu hút các nhà đầu tư chiến lược". Cần xác định đây là "nhiệm vụ chiến lược ưu tiên", thậm chí ưu tiên hàng đầu, của giai đoạn tới. Chương trình Phát triển lực lượng doanh nghiệp, với nội hàm: i) khuyến khích phát triển doanh nghiệp trong tỉnh; ii) thu hút một số nhà đầu tư chiến lược có năng lực tạo chuỗi sản xuất hiện đại và tạo chân dung phát triển của tỉnh; iii) chương trình đổi mới - khởi nghiệp - sáng tạo, lấy ĐH Vinh làm trụ cột.

Để đạt được các mục tiêu - đích phát triển, Nghệ An cần "trở thành địa chỉ có sức thu hút mạnh mẽ đầu tư lớn, người tài và người giàu". Đây là 3 đối tượng - đối tác chiến lược quan trọng hàng đầu, tạo thành động lực phát triển chủ yếu của tỉnh trong giai đoạn tới; Nỗ lực cải cách thể chế và các quyết sách chiến lược của tỉnh trong giai đoạn 2020 - 2025 phải tập trung ưu tiên cho việc thực hiện bằng được nhiệm vụ - giải pháp chiến lược này.

Xin cảm ơn PGS về cuộc trao đổi!

TOÀ SOẠN

 

Lương Thanh Hải

Bàn về tính cách con người ở một vùng, miền nhiều nhân kiệt như Nghệ An trong khuôn khổ một bài viết là không thể, bởi điều đó đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu, điều tra, trao đổi, thảo luận, phân tích, tổng hợp, suy ngẫm, đánh giá và tổng kết một cách khoa học. Đây thực sự là một đề tài khoa học lớn cả về quy mô, thời gian, lực lượng thực hiện. Đây cũng là một công việc rất cần thiết hiện nay, bởi không hiểu người Nghệ nói chung, tính cách người Nghệ nói riêng, thì không thể phát huy hết sức mạnh tiềm năng của họ, công tác lãnh đạo, quản lý sẽ khó tối ưu hóa được.      

Nghệ An đã từng có một chương trình khá quy mô với 6 đề tài nghiên cứu về con người Nghệ An cách đây đã hơn hai chục năm(1). Đó là Chương trình "Con người Nghệ An trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", do PGS. Lê Bá Hán làm chủ nhiệm, trong đó có Đề tài "Bản sắc con người Nghệ An trong tiến trình lịch sử và qua những năm của sự nghiệp đổi mới" với hai nội dung quan trọng về con người xứ Nghệ: thứ nhất, con người xứ Nghệ trong tiến trình lịch sử; thứ hai, con người xứ Nghệ qua những năm đổi mới. Chúng tôi rất chia sẻ quan điểm với nhóm các tác giả của Đề tài này, vì thực chất khi đó mới chỉ có 10 năm, với quan điểm cho rằng, trong tiến trình lịch sử bản sắc con người xứ Nghệ là "cần cù, nhẫn nại, ham học, tiết kiệm, căn cơ, giản dị, nhân hậu, trung thành, dũng cảm, khảng khái, cương quyết nhưng cũng dễ chủ quan, bảo thủ". Ở một góc độ khác, Ban Chủ nhiệm chương trình khi đó lại nhấn mạnh rằng: Những nét nổi trội trong tính cách con người xứ Nghệ là: "1. Giàu nghĩa khí; 2. Ý chí mạnh, quyết tâm cao; 3. Cương trực; 4. Hiếu học đến khổ học - có tiềm năng trí tuệ; 5. Rất mực cần kiệm, giản dị".

Theo chúng tôi, đây là những đặc tính, đặc điểm, tính chất của con người xứ Nghệ nhìn từ chiều cạnh tích cực, chính xác hơn thì đây là những phẩm chất của con người xứ Nghệ(2). Nhưng, tính cách con người xứ Nghệ không chỉ có vậy. Mặt khác, những đặc tính, đặc điểm hay đặc trưng nêu trên không thể nói là không có ở những con người các khu vực, địa phương, tỉnh, thành khác. Việc xác định tính cách con người xứ Nghệ thông qua nghiên cứu, chắt lọc ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý, các học giả và những người nổi tiếng trong lịch sử và trong hiện tại là rất quan trọng, nhưng chưa thể đầy đủ và toàn diện. Theo chúng tôi, cần có một chương trình nghiên cứu toàn diện hơn, rộng lớn hơn, sâu sắc hơn không chỉ dựa trên phân tích, tổng hợp ý kiến của các học giả, chuyên gia người Nghệ như đã nói ở trên, mà phải có ý kiến, nhận xét của cả các học giả, chuyên gia ngoài Nghệ nhưng có vốn hiểu biết sâu sắc về con người và văn hóa xứ Nghệ. Việc điều tra xã hội học, điền dã dân tộc học, kiến thức, vốn sống, trải nghiệm cá nhân trong văn hóa xứ Nghệ, trong giao lưu với con người xứ Nghệ và ngoài xứ Nghệ, đều rất cần thiết và không thể thiếu để minh định tính cách con người xứ Nghệ. Việc sử dụng tổng hợp, đồng bộ, phù hợp các cách tiếp cận khác nhau cũng là đòi hỏi tất yếu(3).

Tính cách con người xứ Nghệ, không chỉ bao hàm các đặc trưng, đặc tính như cần cù, nhẫn nại, ham học, tiết kiệm, căn cơ, giản dị, nhân hậu, trung thành, dũng cảm, khảng khái, cương quyết (Đề tài KX-1-NA.01); hay Giàu nghĩa khí; Ý chí mạnh, quyết tâm cao; Cương trực; Hiếu học, có tiềm năng trí tuệ; Rất mực cần kiệm, giản dị (Ban Chủ nhiệm Chương trình KX-1-NA). Tinh thần yêu quê hương, đất nước; tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng cũng là những nét tính cách đặc trưng của con người xứ Nghệ. Ở chiều cạnh hạn chế con người xứ Nghệ trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế… hiện nay cũng có nhiều đặc tính khác, chứ không chỉ là chủ quan, bảo thủ, hay khổ học mà thôi.

Con người xứ Nghệ hiếu học chứ không phải là khổ học. Với người ngoài nhìn vào và đánh giá trên hệ quy chiếu bên ngoài văn hóa xứ Nghệ có thể có nhận định là người Nghệ khổ học. Nhưng với người Nghệ các nét đặc trưng như có ý chí mạnh, quyết tâm cao, kiên cường, bản lĩnh thì với họ việc học không trở thành khổ học, mà ngược lại là ý chí, quyết tâm, kiên định, hiếu học thể hiện thành hành động. Thậm chí đó còn là niềm đam mê của con người xứ Nghệ. Cũng cần phải nói thêm rằng, từ thế kỷ XV đến nay trong văn hóa xứ  Nghệ có hẳn phong trào khá nổi trội là hướng đến khoa bảng và học vấn. Phong trào này lúc mạnh, lúc yếu, lúc bùng lên cao trào, lúc lắng xuống âm thầm. Nhưng chưa bao giờ tắt. Chính phong trào đó đã nuôi dưỡng, củng cố tinh thần hiếu học đến say mê của đông đảo con người xứ Nghệ. Với họ, học không phải là khổ học, mà học là nhu cầu tự thân. Mặt khác cũng phải thấy rằng, để thành công, thành đạt, và hơn nữa, thành tài, không ai không phải lao động miệt mài, say mê, vất vả. Để thành công, bằng sự học thì điều đó cũng không sai. Trong đời sống xã hội bao ngành nghề, lĩnh vực hoạt động cũng phải khổ luyện mà chưa hẳn đã thành công, thành tài. Vì vậy nhận định rằng ở con người xứ Nghệ hiếu học đến khổ học là không chuẩn xác.

Con người xứ Nghệ cũng không phải vì khổ mà họ học, cũng không hoàn toàn là họ học với mục tiêu làm quan. Nhiều thế hệ ông đồ Nghệ học xong chỉ để dạy học, không ra làm quan, dù nghèo vẫn không đổi nghề dạy học. Tính chất khảng khái, nghĩa khí, cương trực, trung thành, dũng cảm, cương quyết khiến cho nhiều người xứ Nghệ có thể làm quan. Nhưng không vì thế mà làm quan trở thành mục đích trực tiếp cho sự ham học của họ. Nếu vì khổ mà hiếu học thì ở Việt Nam còn có những vùng nghèo, khổ hơn xứ Nghệ mà vẫn không thể hiếu học? Nếu chủ quan người Nghệ cũng không thể thành đạt, thành công, không thể thành danh nhiều như vậy. Trái lại, họ căn cơ, nhẫn nại, quyết tâm cao thì khó có thể rơi vào chủ quan. Nếu họ hiếu học, chịu khó, có tiềm năng trí tuệ thì cũng khó có thể có đặc tính chủ quan.

Nhận định con người xứ Nghệ dễ chủ quan, bảo thủ cũng là nhận định không chính xác. Nói đến tính cách của con người xứ Nghệ là nói đến đặc tính, đặc điểm của số đông, của đa số, chứ không thể lấy cá biệt hoặc của số ít. Không thể không có người xứ Nghệ chủ quan, bảo thủ. Vùng đất nào chả có những con người chủ quan hoặc bảo thủ. Nhưng đó không thể là đặc tính, tính chất của đại đa số người Nghệ, càng không thể là tính cách nổi trội cả theo nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp của thuật ngữ. Chưa thể tiến hành điều tra, thống kê và suy ngẫm kỹ những lập luận, luận chứng của nhận định này. Nhưng qua tiếp xúc, trao đổi, trải nghiệm, với rất nhiều người trong và ngoài xứ Nghệ và qua tìm hiểu các danh nhân xứ Nghệ trong lịch sử thì chúng tôi rút ra rằng nhận định này không có căn cứ. Trái lại, rất nhiều con người xứ Nghệ là những đại biểu cho các tư tưởng cách tân, đổi mới. Sự thành đạt của nhiều nhân vật xuất thân từ xứ Nghệ trong các lĩnh vực học thuật, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao đều nhờ tư duy cách tân, đổi mới, sáng tạo. Hơn nữa, nếu đã nhận định rằng con người xứ Nghệ có tiềm năng trí tuệ, ham học… thì những đặc tính ấy tự chúng đã không dung hợp với thái độ, tính cách chủ quan và bảo thủ. Con người xứ Nghệ có thể có nhiều đặc tính, tính chất, đặc điểm xấu. Nhưng, chủ quan, bảo thủ chắc chắn không phải là tính chất của số đông con người xứ Nghệ.

Tính chất, đặc tính, đặc điểm hay phẩm chất nổi trội đầu tiên trong tính cách con người xứ Nghệ theo nghĩa rộng là tình yêu quê hương đất nước sâu đậm. Tình yêu quê hương, đất nước của con người xứ Nghệ mang sắc thái khác biệt với con người ở các vùng, miền ở tính nồng nàn, sâu đậm, quyết liệt, cương quyết, mạnh mẽ, quyết đoán, sẵn sàng hy sinh bản thân vì đất nước. Sự nghiệp dựng nước, giữ nước, giành độc lập dân tộc trong lịch sử từ khi có sự tham gia của con người xứ Nghệ thể hiện những tính chất này khá rõ. Nghiên cứu lịch sử xứ Nghệ và các nhân vật lịch sử của xứ này cho thấy trong nhiều tình huống, chính tinh thần yêu nước sâu đậm, mãnh liệt, sẵn sàng hy sinh tất cả nên những con người xứ Nghệ đó đã có những quyết định táo bạo, bất ngờ, dũng cảm ở những thời điểm quyết định. Cũng chính tinh thần ấy đã tạo nên cặp thuật ngữ "vinh - nhục" rất độc đáo trong văn hóa xứ Nghệ xưa và nay.

Tình yêu quê hương, đất nước còn thể hiện ở tính cộng đồng của người Nghệ. Đặc điểm này thể hiện rất rõ nét và nổi trội hẳn khi người Nghệ đi ra ngoài xứ Nghệ, đặc biệt là khi ra nước ngoài học tập, lao động, sinh sống. Người Nghệ dễ gần gũi dễ tiếp xúc với nhau, dễ tin nhau và dễ hợp tác với nhau hơn, đoàn kết và bảo vệ nhau trong cuộc sống tạo thành cộng đồng không chính thức hoặc chính thức ở khắp nơi trên thế giới. Con người Nghệ ở hầu hết các nước mà tôi đã đến đều có tính cộng đồng, cố kết mạnh mẽ. Điều đó tạo cho họ sức mạnh tinh thần lẫn vật chất, vượt qua khó khăn để tồn tại và phát triển.

Tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm, mãnh liệt của con người xứ Nghệ kết hợp với cách phẩm chất khác, một mặt, củng cố thêm các phẩm chất đó, làm nên tính cách đặc trưng của con người xứ Nghệ, nâng cao tầm tư duy đại cục của họ; mặt khác, làm giảm nhẹ những đặc điểm, tính chất xấu, tiêu cực đang cần gạt bỏ. Chính tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm đã bồi đắp cho những đặc tính đó trở nên nổi trội trong con người xứ Nghệ xưa và nay. Luận điểm đúc kết giá trị dân tộc Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta", chắc chắn được rút ra từ sự trải nghiệm đầu tiên khi vừa sinh ra và lớn lên trong bầu không khí văn hóa thấm đẫm tình yêu quê hương, đất nước của xứ Nghệ.

Thẳng thắn, cương trực là tính cách nổi trội xưa nay của con người xứ Nghệ. Tính cách này đã có từ xa xưa, nhưng "thẳng thắn đến thô thiển" thì chúng tôi chưa thấy, chưa cảm nhận ra, chưa thấy luận giải, luận chứng nào có sức nặng. Tính cách này ở một số nhân vật trong lịch sử đã trở thành hiện tượng khác thường với các vùng, miền khác của đất nước, là tính cách cá nhân. Nhưng ở xứ Nghệ đó là tính cách của cộng đồng, của số đông "Nhân dân Nghệ-Tĩnh nổi tiếng cứng đầu". Cái cứng đầu đó hoàn toàn không có nghĩa là ương bướng, là ngang ngạnh, là "cùn", là "phá bĩnh". Đằng sau đặc tính đó là hàng loạt các đặc tính tích cực khác, nhất là yêu quê hương, đất nước, là ham học, là nhẫn nại, là nhân từ,… cùng tồn tại gắn kết và trầm tích nên đó là cái "cứng đầu" hợp lý, hợp tình.

Người Nghệ ngày nay qua hơn 30 năm đổi mới thì đã không còn "cứng đầu" như trong lịch sử. Người Nghệ hiện nay mềm dẻo, tư duy biện chứng và linh hoạt không những hơn xưa mà còn hơn nhiều vùng miền khác. Đặc tính cứng đầu trong họ không còn như xưa, nhưng không phải đã hoàn toàn biến mất. Cứng đầu là dám bảo vệ cái đúng, cái hợp lý, hợp tình, hợp luật, phản đối và chống lại cái sai, cái tiêu cực đến cùng vì lợi ích chung, chứ không vì chủ nghĩa cá nhân.

"Cứng đầu" ở con người xứ Nghệ thể hiện sự thẳng thắn, cương trực, trọng đạo lý, theo lẽ phải, khảng khái, không chịu khuất phục trước cái sai, cái phi lý, trái nguyên tắc. Cũng có ý kiến cho rằng "cứng đầu" ở con người xứ Nghệ có hàm ý "cứng nhắc" trong công việc. Chúng tôi cho rằng cứng nhắc trong công việc hoàn toàn không chung nội hàm với "cứng đầu" trong cuộc sống và nhất là trong công việc. Có thể, người Nghệ trong lịch sử và cả hiện nay vẫn "cứng nhắc" trong công việc và trong cuộc sống. Điều này cần được nghiên cứu nghiêm túc. Nhưng đó là đặc tính xấu, tiêu cực, chúng tôi không bàn đến chủ đề những đặc tính xấu, tiêu cực ở đây. Nhưng chúng tôi chỉ muốn khẳng định "cứng đầu" bao hàm những đặc điểm như đã nói thì không đồng nghĩa với "cứng nhắc". "Cứng đầu" theo nghĩa đã nói là phẩm chất cần có, cần phát huy, đặc biệt là trong bối cảnh mới hiện nay khi tác động của kinh tế thị trường thế giới, của cách mạng KHCN, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, của những vấn đề toàn cầu đang ngày một mạnh mẽ đến con người xứ Nghệ và con người Việt Nam nói chung. Những tác động mạnh mẽ của những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, và nhiều mặt khác của đời sống xã hội đã tạo nên môi trường cọ xát, tiếp biến, chắt lọc, chọn lựa, đào thải, bổ sung, phát triển và nẩy sinh những nội dung của những đặc điểm, đặc tính, tính cách của con người xứ Nghệ. Nhưng, những phẩm chất - tính cách tốt đẹp cả theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp, cả bản sắc lẫn tính cách nổi trội của họ vẫn được bảo tồn, duy trì, phát huy như là những giá trị của thời hiện tại. Đó chính là những giá trị con người và văn hóa của con người xứ Nghệ, góp phần tạo hành lang điều chỉnh, định hướng giáo dục - nhất là giáo dục gia đình và tự giáo dục của các thế hệ con người xứ Nghệ. Chính nhờ vậy mà con người xứ Nghệ và xứ Nghệ nói chung vẫn luôn thành công trong nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực cho sự phát triển của đất nước.

Như đã nói, chưa thể có được các khảo cứu chuyên biệt và có quy mô bằng các khảo sát xã hội học, các phỏng vấn, tạo đàm, thảo luận sâu, những thống kê chính xác về các đặc tính, phẩm chất nổi trội của con người xứ Nghệ. Chúng tôi dựa trên các căn cứ sau đây: Thứ nhất, đó là những suy ngẫm dựa trên sự so sánh, cảm nhận trực tiếp, tiếp thu, trong quá trình học tập, sinh sống và trưởng thành từ thời thơ ấu, cho đến lúc lớn lên và mỗi lần trở về quê hương xứ Nghệ. Thứ hai, đó là những suy ngẫm dựa trên những trải nghiệm, qua tiếp xúc, trao đổi, so sánh với con người ở nhiều vùng, miền, nhiều thành phần, tầng lớp xã hội cả trong và ngoài nước; Thứ ba, đó là những suy ngẫm dựa trên tìm hiểu các danh nhân xứ Nghệ trong lịch sử, các ý kiến, các nghiên cứu đã được công bố về các đặc tính, phẩm chất của con người xứ Nghệ. Chúng tôi rút ra rằng: Con người xứ Nghệ hiện nay có các phẩm chất nổi bật sau đây: 1- Yêu nước nồng nàn; 2- Thẳng thắn - cương trực; 3- Hiếu học; 4- Cần cù; 5- Nhân ái - vị tha; 6- Có tiềm năng trí tuệ - sáng tạo; 7- Anh hùng - dũng cảm; 8- Tiết kiệm -  Căn cơ; 9- Giản dị; 10- Kiên cường - quyết tâm cao.

Những tính cách nổi trội, các phẩm chất chính này, cơ bản vẫn xuất phát từ truyền thống, từ văn hóa và quá trình lịch sử. Nhưng hơn 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập, cùng với cả nước con người xứ Nghệ có nhiều đổi thay trên nhiều phương diện, trong đó có cả các đặc tính, tính cách, phẩm chất. Sự thay đổi đó diễn ra và thể hiện ít nhất trên 2 phương diện. Phương diện thứ nhất là thay đổi trong nội dung, phương thức, mức độ biểu hiện của các đặc tính, tính cách. Phương diện thứ hai là thay đổi thang bậc, trật tự nổi trội của các đặc tính. Không thay đổi hoàn toàn, nhưng sự hoán đổi một số vị trí là có, dù có những vị trí hiện rất khó xác định và luận chứng, do chưa được điều tra kỹ lưỡng.

Người Nghệ xưa và nay đều thẳng thắn - cương trực. Nhưng hơn ba thập kỷ phát triển đất nước vừa qua đã giúp họ mềm dẻo hơn, năng động và linh hoạt hơn xưa nhiều. Thẳng thắn, cương trực ở người Nghệ vẫn đậm chất Nghệ, nhưng không còn "cứng đầu", càng không "cứng nhắc", "cứng cỏi" trong giao tiếp, trong công việc và đời sống như xưa. Với thế hệ trẻ hiện nay, điều này thể hiện rất rõ. Những con người xứ Nghệ thành đạt, thành công, thành danh ở chính trên đất Nghệ và ở khắp các vùng, miền trong cả nước và ở nước ngoài đã chứng tỏ điều đó. Những con người xứ Nghệ hoạt động trên khắp các lĩnh vực, nhất là trong thương trường, trong lãnh đạo, quản lý, trong ngoại giao, quân sự, và có những thành công không thể là những người "cứng nhắc", "cứng đầu", "cứng cỏi" như ngày xưa. Ham học hỏi, giao lưu và hội nhập, thị trường và các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ như internet, điện thoại thông minh, mạng xã hội, v.v… đang làm cho con người xứ Nghệ ngày càng thay đổi tính cách thích ứng nhanh hơn, tốt hơn(4). Nhưng trong chiều sâu tư tưởng và tâm hồn, trong truyền thống và tập quán, lối sống những tính cách nổi trội theo nghĩa những phẩm chất tốt đẹp, vẫn còn rất sâu đậm.

Ham học hay hiếu học hiện vẫn là một phẩm chất căn bản làm nên tính cách con người xứ Nghệ. Nhưng hiếu học của người Nghệ giờ đây đã mang tính thực tế, "thực dụng" hơn xưa. Điều này được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau. Thế hệ trẻ hiện chọn ngành, nghề thực tế hơn hẳn các thế hệ của những năm 1990s hay 2000s. Họ lựa chọn bậc học, ngành học, chỗ học sát thực tế hơn các thế hệ trước đó. Quá trình học và cách học cũng được "căn cơ" tối đa cho sát hợp với thực tế. Ở nước ngoài dù đi học hay đi lao động người Nghệ vẫn thể hiện sự mày mò, ham mê tìm hiểu, học hành. Không chỉ với chính học mà cả với con cái, thế hệ tiếp sau họ cũng đã được trao truyền "gen hiếu học". Người Nghệ xưa nay, nhà dù giàu hay nghèo, đều dành dụm nguồn lực có được cho con cái "kiếm dăm ba chữ" trước khi nghĩ đến chuyện giàu có tiền bạc ruộng vườn cho chúng. Bản tính này vẫn còn dù có những thay đổi trong biểu hiện và nội dung, dù không nhiều như các đặc tính khác. Sự học vẫn được người Nghệ xếp bậc cao hơn trong thang bậc các đặc tính, phẩm chất, tính cách hiện thời.

Cần cù là một đặc tính truyền thống với những biểu hiện riêng, mang chất Nghệ của con người xứ Nghệ. Việc lý giải rằng do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên người xứ Nghệ phải cần cù mới bám trụ được trên xứ sở này. Từ trước thế kỷ XV xứ Nghệ vốn là vùng biên viễn phía Nam của các triều đại phong kiến Việt Nam. Đây cũng là vùng đất "người góp" từ nhiều nguồn, nhiều thành phần xã hội khác nhau. Con người như vậy, điều kiện tự nhiên như vậy buộc con người phải cần cù để khai phá, để khai thác nhằm vươn lên để tồn tại và phát triển. Các thế hệ khác nhau kế tục nhau cứ như vậy tạo nên phong trào, truyền thống, tạo nên "mã di truyền", trở thành truyền thống cần cù trong mỗi con người, mỗi gia đình và cộng đồng.

Mặt khác, phẩm chất cần cù còn là kết quả của các đặc tính khác đã trở thành phẩm chất của cộng đồng. Với tinh thần yêu quê hương, đất nước sâu đậm, với phẩm chất hiếu học, thẳng thắn - cương trực; nhân ái - vị tha; tiết kiệm - căn cơ;… thì tất yếu con người đó sẽ có phẩm chất cần cù. Nhờ cần cù và các phẩm chất khác người Nghệ đã đứng vững và vượt qua bao khó khăn, thách thức. Chính điều này và sự thành công của con người xứ Nghệ lại củng cố thêm đức tính cần cù đó. Bối cảnh mới của đất nước những thập niên gần đây tính cần cù của người xứ Nghệ đã có những thay đổi và biểu hiện khác các thế hệ trước đây. Thế hệ trẻ vẫn cần cù, nhưng nhiều lĩnh vực, ngành nghề, nhất là các thành tựu của cách mạng KHCN và CMCN hiện nay đang làm cho tính cần cù bị lu mờ. Chúng đòi hỏi con người hiện đại phải tiếp cận nhanh, có hiệu quả nhanh, chi phí thấp, giá thành hợp lý, v.v… Nguyên tắc "cá nhanh thắng cá chậm" trong kinh tế thị trường hiện đại đang vào nước ta ào ạt. Cái đó làm cho đức tính cần cù dường như tồn tại nhiều, đậm đặc ở các thế hệ cũ, nhưng đang mờ dần, ít được chú ý ở các thế hệ trẻ sau nay. Trật tự, thứ bậc của cần cù trong thang bậc tính cách nổi trội đang bị lung lay, có thể bị đầy lùi dần xuống các thứ bậc sau trong tương lai không xa nữa.

Ở phương diện thứ hai, thứ bậc của 10 tính cách nổi trội được nêu ở trên là thứ bậc truyền thống và được sinh ra từ điều kiện lịch sử của vùng đất này và quốc gia này. Dù vậy thứ bậc này còn cần được thảo luận, trao đổi, luận giải và luận chứng đầy đủ, chặt chẽ. Nhưng, những dấu hiệu, triệu chứng thay đổi thứ bậc do bối cảnh mới xuất hiện nhiều yếu tố, nội dung và xu hướng khác nhau(5), trong hơn 30 năm qua đã bắt đầu xuất hiện và đang mạnh dần lên. Xã hội và con người đang ngày càng chuyển động vào tương lai với tốc độ ngày càng nhanh. Do vậy, sự thay đổi trong tính cách hiện giờ cũng nhanh hơn trong quá khứ. Một mặt, con người vẫn phải dựa vào quá khứ để tồn tại và phát triển. Nhưng, để tồn tại và phát triển con người lại phải thay đổi các điều kiện bên ngoài lẫn chính bản thân, trong đó có tính cách. Con người xứ Nghệ cũng đang trong tiến trình chung đó. Tính cách của họ cũng đang thay đổi nhanh hơn xưa, thứ bậc các đặc tính phẩm chất cũng đang biến động.

Thời đại CMKHCN và CMCN hiện nay không thể sử dụng đặc tính cần cù như là đặc tính chủ lực quân để giải quyết thắng thua trên bàn cờ phát triển. Nhận thức rõ điều này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ nói chung và cán bộ nói riêng. Chọn cán bộ cần mẫn, cần cù dù cần thiết, nhưng, chắc chắn không có sáng tạo, trí tuệ thì không thể phát triển cả cá nhân lẫn cộng đồng.

Thứ hai, tiết kiệm - căn cơ ở con người xứ Nghệ đang có những chuyển dịch rõ rệt. Người Nghệ đi ra khỏi xứ Nghệ ít thành công bằng sự tiết kiệm - căn cơ như thời xa xưa. Người Nghệ trên đất Nghệ cũng không còn "tiết kiệm đến mức cá gỗ". Người Nghệ đã trở nên hào phóng, rộng rãi, thoáng đãng hơn xưa nhiều. Người Nghệ đang chuyển mình trên thứ bậc của tính cách tiết kiệm - căn cơ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với lãng phí, xa hoa, thiếu tính toán. Không lâu nữa, tiết kiệm - căn cơ phải lùi sâu xuống cuối bảng. Người Nghệ hiện nay cẩn trọng hơn các vùng miền khác, nên tiết kiệm - căn cơ cũng là tất yếu. Nhưng, trong điều kiện hiện nay, sự cẩn trọng không củng cố đặc tính tiết kiệm, căn cơ. Trái lại nó đẩy tiết kiệm - căn cơ lùi sâu xuống đáy bảng nhanh hơn. Những đặc tính khác đang trỗi dậy, lại được điều kiện bên ngoài và bên trong thúc đẩy phát triển khiến cho thang bậc các đặc tính - phẩm chất đang chuyển động thay thế vị trí của nhau khá rõ.

Tất cả các đặc tính - phẩm chất trong bảng thứ bậc đều có thay đổi, chuyển động. Đương nhiên, các thay đổi, chuyển động đó không đồng đều cũng là nguyên nhân đưa đến sự thay đổi thứ bậc các đặc tính, đặc điểm của con người xứ Nghệ hiện nay. Nội dung, phương thức thể hiện các đặc tính - phẩm chất thay đổi, thứ bậc các đặc tính - phẩm chất đó chuyển dịch là tất yếu trong điều kiện mới. Nhưng, điều quan trọng là bảo tồn, duy trì, phát huy được các đặc tính phẩm chất quý báu đó của con người xứ Nghệ để ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng phát triển và có đóng góp to lớn, hiệu quả cho sự phát triển của cộng đồng.

 

Chú thích

(1). Đã có những tài liệu khác nhau ghi chép về các đặc điểm, đặc tính của con người xứ Nghệ của các tác giả trong và ngoài nước. Ở đây chúng tôi chỉ dẫn ra chương trình nghiên cứu này là chương trình mới nhất, có quy mô và dung lượng lớn nhất từ trước đến nay về tính cách con người xứ Nghệ, trong đó có nhiều nội dung mà chúng tôi tán đồng, chia sẻ.

(2). Không nói đến đặc tính "dễ chủ quan, bảo thủ".

(3). Lương Đình Hải, Phát huy đặc tính - giá trị truyền thống con người miền Trung trong bối cảnh hiện nay: cách tiếp cận và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1 (106) - 2020, tr 43- 56.

(4). Chúng tôi đã làm một cuộc thăm dò nhỏ ý kiến về đặc tính thẳng thắn của người Nghệ trong sinh viên và học viên cao học có quen biết ít nhất 01 người xứ Nghệ, 76% số được hỏi ngẫu nhiên cho rằng người Nghệ An thẳng thắn nhưng vẫn mềm dẻo, linh hoạt.

(5). Các yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến con người và tính cách của con người hiện nay gồm: kinh tế thị trường; CMKHCN, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; hạ tầng k

Nguyễn Đình Anh

Trong chương trình giáo dục phổ thông tính từ năm 2000 đến năm 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định: Các lớp ở bậc THCS mỗi năm dành 30 tiết để dạy chương trình địa phương. Hai bậc học còn lại Tiểu học và Trung học phổ thông chưa phải biên soạn và dạy học chương trình địa phương. Chương trình địa phương chủ yếu là những nội dung liên quan tới Lịch sử, Ngữ văn, Địa lý của địa phương; Kiến thức đưa vào chương trình giáo dục địa phương phải là những nội dung kiến thức không được trùng với nội dung kiến thức đã có trong chương trình giáo dục phổ thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn để dùng chung cho các trường học trên toàn quốc. Từ năm 2015 trở về trước Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An có biên soạn 1 chương trình  Ngữ văn địa phương chung cho tất cả các trường THCS trong tỉnh. Nhưng từ năm 2015 đến nay Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường tạm ngừng dạy học theo chương trình địa phương do Sở biên soạn. Và cũng từ năm 2015 Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An giao hẳn cho các phòng Giáo dục và Đào tạo tự xây dựng chương trình và bài dạy cho chương trình địa phương của huyện mình. Bởi vậy trên thực tế chương trình và tài liệu để dạy học chương trình địa phương môn Ngữ văn và các môn học Địa lý, Lịch sử do Sở Giáo dục và Đào tạo và các huyện biên soạn chỉ dừng lại là tài liệu sử dụng nội bộ. Chất lượng chương trình giáo dục phổ thông giữa các huyện không đồng đều với nhau. Bắt đầu từ năm 2021 trở đi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo chương trình giáo dục địa phương ở phổ thông sẽ được triển khai dạy học cho cả 3 bậc học Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Chương trình giáo dục địa phương được quy định theo chương trình Giáo dục phổ thông mới ban hành từ năm 2018 và sẽ lần lượt được thực dạy từ năm 2021 trở đi hiện đang được Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An tiến hành biên soạn.

Theo nhận biết của chúng tôi thì trong các chương trình địa phương môn Ngữ văn được biên soạn bài bản có chất lượng và có tính chất pháp lý được đưa vào giảng dạy trong các trường THCS thời gian qua là tập chương trình địa phương môn Ngữ văn của thành phố Vinh do tác giả Dương Hồng sưu tập và biên soạn.

Với một thực tế cụ thể như trên nên chúng tôi quyết định lựa chọn phần Văn học trong chương trình địa phương môn Ngữ văn của thành phố Vinh do tác giả Dương Hồng, một nhà quản lý trường học lâu năm sưu tập và biên soạn để làm ngữ dữ liệu cho bài viết này. 

Trong tài liệu môn Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh ngoài một số bài viết để làm dữ liệu dạy học phần từ ngữ, ngữ pháp còn lại phần lớn là các tác phẩm văn học viết về vùng đất, về con người thành phố Vinh và Nghệ An.

Ngoài bài tản văn do chính tác giả viết có nhan đề "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt" làm tài liệu tự chọn cho người dạy thì các tác phẩm văn học trong tài liệu Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh gồm các tác phẩm thuộc các thể loại được nhóm về và sắp xếp theo tuần tự sau:

- Phần văn học dân gian gồm một số câu ca dao về tình cảm gia đình. Một trích đoạn các bài ví, giặm Nghệ - Tĩnh và bài giới thiệu tổng quan về dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh.

- Một số bài thơ thời trung đại viết về Vinh.

- Một số tác phẩm văn học hiện đại viết về Vinh ngày xưa và Vinh hôm nay.

Các mảng tác phẩm đó được bố trí theo yêu cầu mang tính sư phạm phù hợp cho các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.

Đọc các tác phẩm văn học được đưa vào dạy trong phần chương trình địa phương của thành phố Vinh chúng ta (người lớn) và các em học sinh khi được học chương trình môn Ngữ văn địa phương thành phố Vinh sẽ cảm nhận được những tình cảm tốt đẹp, nhân cách cao quý của người Nghệ An nói chung và công dân thành phố Vinh nói riêng. Các tác phẩm đó sẽ góp phần giáo dục thẩm mỹ, tu dưỡng nhân cách đạo đức cho thế hệ trẻ theo con đường đi và cách thức riêng của văn học nghệ thuật.

Sau đây là cảm nhận của chúng tôi về  một số tác phẩm văn học  đã được chọn để đưa vào chương trình dạy học môn Ngữ văn trong các trường THCS ở thành phố Vinh:             

1. Chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh với các tác phẩm: Bài thơ "Dũng Quyết sơn" của  Dương Thúc Hạp (1995-1920) từng làm quan đốc học Nghệ An (1891), "Núi con mèo một trong tứ linh của đô thị Vinh" của nhà nghiên cứu văn hóa Đào Tam Tĩnh, "Nguyễn Viết Nhung, Nguyễn Viết Phú hai cha con, hai vị thành hoàng đất Vinh" của nhà báo Nguyễn Khắc Thuần,  "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt" - tản văn của nhà giáo Dương Hồng đã giúp cho người học hiểu được và tự hào về một đánh giá có tính chất lịch sử về con người và vùng đất thành phố Vinh: "Thành phố Vinh một vùng đất địa linh nhân kiệt".

- Căn cứ để khẳng định thành phố Vinh được mệnh danh là vùng "Địa linh":

"Sát dưới sông Vinh, phía dưới chân núi Quyết có núi Con Mèo, còn gọi tên là núi Kỳ Lân trong những tứ linh của đô thị Vinh: Long, Ly, Quy, Phượng. Tên núi Kỳ Lân có từ xa xưa. Khi Nguyễn Trãi viết sách Dư địa chí có ghi núi Kỳ Lân như một mốc quan trọng trong địa hình Nghệ An và trấn cho phên dậu thứ ba của nước Đại Việt" (Đào Tam Tĩnh). Bài thơ viết bằng chữ Hán "Dũng Quyết sơn" của Dương Thúc Hạp thì cho rằng núi Dũng Quyết là một cảnh quan hùng vĩ, hữu tình, thơ mộng:

Từ mạch Đại Hải núi đứng tách ra

Núi vút cao bên bờ sông Lam

Sườn núi đá lô nhô

Chân núi nước dạt dào

Động núi vách đá phía Nam có chùa Sơn Quang

Vách  núi phía Tây có hòn Ngọc Thỏ

Theo bậc đá lên cao thư thả nhìn xa

Thuyền cá, thuyền buôn lượn lờ trong mây nước.

(Nguyễn Thanh Hải dịch) 

- Thành phố Vinh là "Vùng đất nhân kiệt" đã được nhà giáo Dương Hồng diễn giải như sau:

"Vinh đã nuôi dưỡng nhiều nhà hoạt động cách mạng nổi tiếng: Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Lê Viết Thuật… Vinh là nơi đầu tiên Trần Phú đến với cách mạng. Các đồng chí Hà Huy Tập, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh đều đã đến Vinh, lấy Vinh làm địa bàn chiến lược để xây dựng phong trào cách mạng.…Vinh là quê hương của nhiều lãnh đạo Đảng và Nhà nước: Đại tướng Chu Huy Mân, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm; Các nhà khoa học lớn Nguyễn Xiển, Nguyễn Khánh Toàn; Các nhà  thơ, nhà văn Minh Huệ, Nguyễn Trọng Oánh…. Vinh là thành phố được gọi tên là thành phố đỏ… Thành phố Vinh là nơi đi đầu, khởi nguồn của cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, là một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước nếu tính từ ngày 10/12/1927 chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương nhập 3 thị xã làm một, ra đời một cấp hành chính cao hơn đó là thành phố Vinh  - Bến Thủy. Trên khu đất dài gần 5 km của đô thị Vinh bây giờ có khoảng 20 nhà máy, công xưởng. Riêng nhà máy xe lửa Trường Thi thu hút hơn 4.000 công nhân… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thành phố Vinh vừa là hậu phương lại vừa là tuyến đầu của cuộc kháng chiến kiến quốc. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp nhân dân thành phố Vinh đã quyết tâm tiêu thổ kháng chiến để làm vùng hậu phương chiến lược an toàn. Công nhân cùng các giới đồng bào đã tự phá hoại thành phố của mình đưa máy móc lên rừng núi để sản xuất vũ khí và các nhu yếu phẩm phục vụ bộ đội. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước tính từ trận đánh không quân Mỹ ngày 5/8/1964 trên đất thành phố Vinh đến ngày 15/1/1973 Nghệ An trong đó có Vinh đã bắn rơi 553 máy bay và bắn chìm 36 tàu chiến của Mỹ… Thành phố Vinh là thành phố anh hùng. Anh hùng bởi hiếm có địa danh nào trên cả nước lại có nhiều đơn vị cá nhân được tặng danh hiệu cao quý anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trên diện tích 1km2 (xung quanh phà Bến Thủy) có phà Bến Thủy 2 lần anh hùng, nhà máy điện Vinh, phường Bến Thủy, phường Hưng Dũng… Thành phố Vinh là thành phố trẻ. Trẻ bởi được quy hoạch lại, xây dựng lại từ đầu sau khi nước nhà được thống nhất. Từ đống tro tàn trong chiến tranh nay thành phố Vinh đã trở thành một thành phố năng động...

Thành phố Vinh sẽ trở thành thành phố chứa trong đó đô thị biển Cửa Lò sau này khi thực hiện xong quy hoạch mới.

Thành phố thông thương đến các nước trên thế giới.

Thành phố Vinh - Thành phố của bình minh - thành phố của tương lai" (Thành phố Vinh vùng đất địa linh nhân kiệt - Dương Hồng). 

2. Các tác phẩm văn học trong Ngữ văn địa phương thành phố Vinh đã ánh lên vẻ đẹp về tâm hồn của người Nghệ xưa và nay. Chùm ca dao sau đây được đưa vào chương trình Ngữ văn thành phố Vinh đã bộc lộ niềm kiêu hãnh, tự hào của người Nghệ đối với quê hương xứ sở của mình: 

"Núi Hồng ai đắp mà cao

Sông Lam ai bới, ai đào mà sâu"

"Đường vô xứ Nghệ quanh quanh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ"

" Cất công đến chốn Nghệ An

Chợ Vinh chưa đến, ruột gan chưa đành". 

3. Bằng việc đưa vào chương trình một số tác phẩm "Gạch vụn thành Vinh" của Thạch Quỳ, "Cô gái bán vé phà" của Nguyễn Trọng Oánh, "Tiếng Nghệ" của Nguyễn Bùi Vợi  và một số trích đoạn ví, giặm Nghệ - Tĩnh quen thuộc đã được người Nghệ và nhân dân cả nước yêu thích;  Chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh một lần nữa khẳng định  những tình cảm, phẩm chất tốt đẹp và nhân cách riêng của người Nghệ: Con người xứ Nghệ giàu tình nghĩa, cần cù, chịu khó trong lao động, yêu thương và trân trọng con người hết mực yêu nước, dũng cảm kiên cường trong chiến đấu, bộc trực thẳng thắn, cao thượng trong ứng xử và giàu tài năng sáng tạo nên đã mạnh mẽ vượt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đã tạo dựng nên một vùng văn hóa có bản sắc riêng đó là dân ca ví, giặm. Ví giặm Nghệ - Tĩnh đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (Unesco) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đồng thời các bài học trong chương trình Ngữ văn địa phương còn đặt ra trách nhiệm cho các thế hệ người Nghệ trong đó học sinh THCS là phải có trách nhiệm trong việc bảo tồn di sản văn hóa của cha ông để lại. 

4. Lòng kính yêu lãnh tụ, một tình cảm cao quý, một nét tính cách nổi bật của người Nghệ đã được người soạn chương trình đưa vào vị trí đặc biệt trong tài liệu Ngữ văn địa phương thành phố Vinh với ghi chép "Quảng trường Hồ Chí Minh điểm nhấn của thành phố đỏ" của tác giả T.B. Bài viết chính là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ, của nhân thành phố Vinh thể hiện tấm lòng kính yêu của nhân dân Nghệ An và của nhân dân cả nước đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

5. Có một nét tính cách khá nổi bật của người dân sống trên đô thị Vinh  là  dân Vinh chủ yếu là người thôn quê lên làm việc và ở lại với phố. Mặc dù họ đã là dân thành phố lâu năm nhưng tấm lòng, tình cảm của họ luôn gắn bó với làng quê nơi trước đây họ đã sinh ra. Người thành phố không bao giờ quên nơi chôn rau cắt rốn của mình. Nhà thơ Nguyễn Thị Phước trong bài thơ "Những sợi rơm trên phố" được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh nói hộ nỗi lòng và tình cảm đã nêu ở trên của họ:

    Tôi nhìn rơm đã khác chưa

    Có như ngày ta còn nghèo khổ

    Rơm ấm nên quây thành tổ ổ

    Ngày rơm đưa ta đến trường

   Chiếc mũ ổ rơm không còn

   Mấy mươi mà thành chuyện cổ

   Mặc cho ai quên ai nhớ

   Rơm vẫn thơm vàng đời rơm.

(Những sợi rơm trên phố - Nguyễn Thị Phước).

6. Nét nổi bật khác cần kể tới trong chương trình Ngữ văn địa phương thành phố Vinh, người biên soạn chương trình còn chọn một số phóng sự và tạp văn còn nóng hổi tính thời sự: "Cháo lươn thành Vinh" của các tác giả C.B và T.H, "Thức dậy tiềm năng du lịch Hưng Hòa" của Nguyễn Thị Quỳnh Phương, lời bài hát "Vinh - Thành phố bình minh" của nhạc sỹ Lê Hàm đưa vào chương trình dạy học để ngợi ca tính năng động của những con người đang lao động sáng tạo trong cách nghĩ cách làm để phát triển kinh tế văn hóa đưa Vinh tiếp tục bước vào một chặng đường phát triển mới.

7. Một nét mới khá nổi bật của chương trình môn Ngữ văn thành phố Vinh  mà các huyện khác chưa thực hiện được là người biên soạn đã chọn được một tác phẩm khá hay nói về tình hữu nghị gắn bó giữa Nghệ An và nước Cộng hòa dân chủ Đức đó là bài thơ "Vinh có thêm anh" của Lê Duy Phương. Bài thơ đã tạo thêm một dấu ấn về nhân cách của người Nghệ An là biết nâng niu quý trọng tình hữu nghị giữa các dân tộc và ở thời điểm này Vinh đã bước vào hội nhập quốc tế:   

Vinh của tôi lại có thêm anh

Người anh em đồng chí

Những sáng long lanh những chiều bình dị 

Xe anh đi về trong luồng xe chúng tôi

Không nói hết những gì ta gắn bó

Giữa chằng chịt hố bom và máu đổ

Anh cùng tôi gặp gỡ giữa đất này

Những nét hình kiến tạo buổi mai nay

(Vinh có thêm anh - Lê Duy Phương)

Hai khổ thơ trên đã khắc ghi tình cảm gắn bó của đoàn chuyên gia nước Cộng hòa dân chủ Đức với nhân dân thành phố Vinh trong những ngày đầu xây dựng lại thành phố Vinh. Thời kỳ người Nghệ bước vào hội nhập quốc tế đón nhận sự đầu tư giúp đỡ của quốc tế.

Trên đây chúng tôi đã trao đổi một số nét về con người Nghệ An trong chương trình môn Ngữ văn địa phương của thành phố Vinh. Chúng tôi mong rằng bước vào chặng đường thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong đó có nhiệm vụ thực hiện giảng dạy chương trình địa phương cho các cấp học ở phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12 (Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2018), Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An sẽ tổ chức biên soạn được một bộ chương trình địa phương có chất lượng hơn cho các môn học địa phương (theo hướng tích hợp hoặc độc lập các nội dung Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Du lịch, Kinh tế cho các nhà trường đáp ứng tốt hơn cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế  theo tinh thần Nghị quyết 29 của TW Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo

Nguyễn Khắc An

Tính cách Nghệ chưa bao giờ là một đề tài hết thú vị cho dù đến thời điểm này thì nó không còn là câu chuyện mới mẻ nữa. Người ta đề cập đến nó, trăn trở với nó cả trăm năm nay rồi nhưng cứ mỗi lần chạm đến thì dường như lại có một phát hiện mới được công bố. Tính cách Nghệ là gì? Hình thù nó như thế nào? Đâu là ưu và cái gì là nhược? Nguồn gốc và cơ sở hình thành tính cách Nghệ? Tất cả dường như đã được nhận diện và lần lượt gọi tên. Có thể khẳng định các thế hệ học giả nhiều tài ba và giàu tâm huyết trong quá khứ đã ưu ái lưu lại nguồn tư liệu đủ đồ sộ để những người có bổn phận kế thừa và kết nối như chúng ta được tiếp cận hệ thống hơn, đầy đủ hơn, khoa học hơn về con người xứ Nghệ.

Trong khuôn khổ giới hạn dung lượng một bài viết, với tư cách là một người Nghệ "chính hãng" tôi xin phép đề cập đôi điều về tính cách Nghệ. Trên cơ sở đó, với tinh thần "gạn đục khơi trong" xin được mạnh dạn bộc bạch một vài suy nghĩ cá nhân nhằm góp thêm tiếng nói của người trong cuộc cho những khát vọng hội nhập và phát triển vẫn muôn đời đau đáu trong mỗi con người xứ Nghệ.

Người Nghệ lắm "tài" nhưng cũng nhiều "tật"

Một điều khá thú vị là hầu hết những nhận xét về tính cách Nghệ đều có đặc điểm chung, đó là rất hay và rất… không sai. Cách đây những 200 năm Hoàng giáp Bùi Dương Lịch (1757-1828), người từng làm Đốc học Nghệ An cho rằng, giới tinh hoa của xứ Nghệ "lấy danh tiết làm trọng". Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam từng đặt vấn đề "nói đến xứ Nghệ, điều trước tiên không thể không nhắc tới là con người, một biểu hiện độc đáo và gây ấn tượng nhất" (Ngô Đức Thịnh, 2009; tr.194); Học giả Đặng Thai Mai thì viết: "Người Nghệ can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến "cá gỗ" (Đặng Thai Mai, 1960, tr.37). Không chỉ những nhà nghiên cứu, mà cả những vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước cũng từng đưa ra những đánh giá thú vị về người Nghệ như cố Tổng Bí thư Lê Duẩn thừa nhận: "Có lẽ những người thông minh nhất và sâu sắc nhất thì Nghệ Tĩnh này là một nơi trung tâm". Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng khẳng định: "Con người Nghệ Tĩnh là vốn quý nhất của địa phương và của cả nước". Ngoài ra các học giả như GS. Phong Lê, GS. Vũ Ngọc Khánh, Nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh… cũng có những kết luận khá tương đồng.

Người Nghệ hiển nhiên có cái chất của người Nghệ. Sự khắc nghiệt của gió Lào, cát trắng, của mưa chẳng thuận, gió chẳng hòa, mùa đông sương buốt giá, mùa hạ nắng cháy da… đã mặc nhiên tôi rèn cho người Nghệ một khả năng thích ứng diệu kỳ. Người Nghệ đủ năng lực nội sinh để chịu đựng mọi phong ba bão táp, đủ mạnh mẽ để chống chọi kiểm soát và chi phối phần nào sự khắc nghiệt ấy. Trưởng thành ngay từ vùng lõi cực đoan của khí hậu, sự cấu kết cộng đồng mặc nhiên được hình thành, ý chí vươn lên được thiết lập, trở thành ngọn nguồn của tinh thần đoàn kết, chịu khó, siêng năng, hiếu học, can trường, bộc trực… Chính những tố chất ấy đã tạo nên những lớp lớp thế hệ người Nghệ siêng năng, cần cù trong lao động, bộc trực, hài hước trong giao tiếp, gắn bó đoàn kết với cộng đồng và dũng cảm kiên cường nơi chiến trận. Những nhẹ nhàng ngọt ngào, những điềm đạm, những kiềm chế cảm xúc, những kín đáo... có vẻ như khá xa lạ với người Nghệ. Ở đâu người Nghệ cũng dễ để được nhận ra không chỉ từ giọng nói mà nhận ra chính bằng những ưu điểm và thế mạnh của quê mình. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng cho thấy nhiều thời đại người Nghệ là nơi lựa chọn chiêu mộ binh sĩ. Trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh người Nghệ rầm rập đứng lên với khí phách "Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước/ Nọ Thanh Chương tiếp bước đi lên/ Nam Đàn Nghi Lộc Hưng Nguyên/ Anh Sơn, Hà Tĩnh một phen dậy rồi…" (Bài ca cách mạng). Trong chiến tranh, có thể kể tên hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn người con xứ Nghệ tiên phong trên mọi mặt trận. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, thì những trận đánh của "lính Nghệ" bao giờ cũng làm cho kẻ thù khiếp sợ. Lính Nghệ đã ra trận là với tinh thần "chết cũng mần" (câu nói của Cù Chính Lan, Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu Nghệ An - Anh hùng diệt xe tăng). Về ưu điểm người Nghệ nổi tiếng thông minh, hiếu học, tự tin, cần cù, chịu khó, chịu khổ, hào sảng, khảng khái, đàng hoàng, trọng danh dự, mộc mạc, chân thành, đoàn kết, tình nghĩa, tiết kiệm, dũng cảm can trường, dí dỏm hài hước.

Bên cạnh ưu điểm thì người Nghệ cũng tồn tại không ít những nhược điểm: Tự cao tự mãn, tùy tiện, vô kỷ luật, cục bộ theo kiểu làng xã, nóng nảy đến thô lỗ, sĩ diện đến hão huyền, bảo thủ đến quẫn trí, tằn tiện đến keo kiệt, quyết liệt đến cực đoan, ganh đua đến kèn cựa, cứng nhắc đến gàn dở… "Con cá gỗ" không chỉ đơn thuần là biểu tượng về sự tằn tiện, tinh thần hiếu học mà con cá gỗ ít nhiều cũng chứa đựng cái bệnh sĩ diện của người Nghệ. Đã có giai đoạn các doanh nghiệp trong nước từ chối tuyển dụng người Nghệ, thậm chí ngay cả đi xuất khẩu lao động thì một số công ty nước ngoài ở Nhật Bản cũng không mặn mà với lao động Nghệ. Nhược điểm của người Nghệ đã có lúc trừng phạt người Nghệ. Cũng may mà người Nghệ đã mau chóng nhận ra và cũng cầu thị điều chỉnh.

Nhân đây cũng xin nói thêm một chút về cái "choa" của người Nghệ. Người Nghệ thích dùng chữ "choa". Ai đó từng "dịch" choa ra thành "chúng tôi". Về mặt ngữ pháp (ngôi thứ nhất số nhiều) có thể là tương thích, nhưng thiết nghĩ choa không đơn thuần là thay cho từ "chúng tôi". "Choa" là phương ngữ thể hiện sự đoàn kết, tự tin nhưng công bằng mà nói "Choa" cũng có hàm ý gì đó cục bộ, tự cao, ta đây và bảo thủ… Thành công thì vỗ ngực "choa phải rứa" thất bại thì phủi tay "choa chỉ đến đó thôi". Thời buổi hội nhập mà đụng đến cái gì cũng "kệ choa" thì coi như đã tự mình khép cửa. Giá như người Nghệ bớt cái "choa" đi một chút.

Người Nghệ đang phát "tài" nhưng cần tiếp tục sửa "tật"

Là một người Nghệ lại bàn chuyện gạn đục khơi trong cho người Nghệ quả thực khó. Sợ nhất là chính cái chất Nghệ thâm căn cố hữu trong mình sẽ không cho mình bươn ra khỏi sự bủa vây của nền tảng bảo thủ để chạm vào miền thông thoát. Người bảo thủ là người không nhận ra mình bảo thủ. Khi viết bài này tôi đã cố gắng lựa ra những phẩm chất người Nghệ đã được các thế hệ đúc rút rồi đem đối chiếu với tính cách chung của người Việt thì bất chợt nhận ra cái phẩm chất tốt đẹp của người Nghệ cũng là cái phẩm chất tốt đẹp của người Việt, cái nhược điểm của người Nghệ cũng là cái nhược điểm chung. Chỉ có điều người Nghệ cực đoan hơn nên biểu hiện nó ra ngoài "sắc nét" rõ ràng và mạnh mẽ hơn dẫn đến dễ nhận diện hơn.

Công bằng mà nói người Nghệ thế kỷ XXI đã rất khác. Ngày nay hình như ở đâu trên cái hành tinh xinh đẹp và nhộn nhịp này cũng có cộng đồng người Nghệ. "Nghệ Kiều" đã tiếp cận, lĩnh hội và thâm nhập nhanh với thế giới bên ngoài, và chính họ đóng vai trò như những con thoi trong việc giao thoa văn hóa. Bên cạnh đó người Nghệ kỷ nguyên        internet ngày nay được thụ hưởng những thành tựu tuyệt vời của công nghệ thông tin. Đứng đầu phải kể đến mạng xã hội, chính nó đang xóa dần đi những cách biệt cũng như khác biệt giữa con người với con người. Người Nghệ ngày nay không còn quá bảo thủ, người Nghệ đã chủ động tiếp cận, chấp nhận với bên ngoài, nhất là với môi trường lao động công nghiệp. Người Nghệ không còn "chặt to kho mặn" họ nhận ra những nhược điểm trong tính cách của mình để điều chỉnh phù hợp nhằm tương thích với không gian mở đầy năng động. Với lợi thế thông minh và ham học hỏi người Nghệ đâu có lề mề trong hội nhập, ít nhất là trên không gian mạng. Với thời đại công nghệ thì việc hội nhập chưa hẳn là khó khăn hơn việc bảo tồn. Cũng có ý kiến cho rằng người Nghệ giỏi nghiên bút chứ nhảy vào kinh tế là tụt hậu. Nói thế nếu đúng thì cũng chỉ "một vạt" nào đó thôi. Những tên tuổi lẫy lừng như chủ Tập đoàn Vingroup, Tập đoàn Mường Thanh hay Tập đoàn TH đều là dân gốc Nghệ cả đấy chứ.

Chỉ tính riêng Thủ đô Hà Nội thì người gốc Nghệ đang sinh sống và làm việc rất có thể đã lên tới con số hàng trăm ngàn. Họ là những tế bào sống động góp phần trung hòa những nhược điểm của tính cách Nghệ. Không chỉ Hà Nội, mà cả TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Tây Nguyên… ở đâu thì "tế bào" Nghệ cũng đã được "cấy" vào để hội nhập cả. Tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự chuyển biến tích cực trong tính cách Nghệ. Chất Nghệ mãi mãi còn nhưng chắc chắn chất Nghệ sẽ không được phép xung đột với lợi ích Nghệ.

Cần tạo cơ hội cho thế hệ trẻ xứ Nghệ được cống hiến cho quê hương. Năm 2020 trong đoàn học sinh Việt Nam đi tham dự Olympic quốc tế có 28 người thì xứ Nghệ chiếm đến 12 người. Nếu không tính TP Hồ Chí Minh thì từ Quảng Bình cho đến tận Mũi Cà Mau cũng chỉ vỏn vẹn duy nhất 1 người. Người ta đặt câu hỏi tại sao xuất sắc đến thế mà xứ Nghệ vẫn nghèo? Người Nghệ giỏi thì không cần phải bàn cãi nữa. Người Nghệ rất chịu khó chinh phục… khoa bảng. Người Nghệ hiếu học, khi học rồi thì rất hiếu thi, khi đi thi rất hiếu thắng, và khi thắng được rồi thì rất ít… quay trở về quê nhà. Cách đây mấy tháng một học sinh trường chuyên vô địch cuộc thi đường lên đỉnh Olympia đã lấy nước mắt biết bao nhiêu người không chỉ vì thành tích và nghị lực tuyệt vời của em ấy mà còn vì câu nói rưng rưng rằng "Em xin hứa rằng sau này du học xong em sẽ về với quê hương". Vài chục năm lại nay dân Nghệ truyền miệng câu chế "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như tranh họa đồ/ Ai vô xứ Nghệ thì vô/ Còn choa vẫn ở thủ đô lâu dài". Vì sao vậy? Họ tin rằng nơi có điều kiện hoàn hảo hơn thì phẩm chất tốt đẹp xứ Nghệ sẽ được phát huy tốt hơn. Cũng có người cho rằng trong "thế giới phẳng" thì không cứ nhất thiết phải về quê mới cống hiến được cho quê. Đã thành đạt thì bất cứ ở đâu trên địa cầu này người Nghệ cũng có thể mang lại hồng phúc cho xứ Nghệ.  Vâng, về mặt lý thuyết thì điều ấy hoàn toàn đúng, nhưng thực tế mấy mươi năm qua thì cái sự đúng ấy lại chưa được chứng minh rõ ràng. Nói "chảy máu chất xám" thì e không phải, nhưng nói khai thác triệt để chất xám cũng không. Nhiều bạn trẻ học hành xong thì cố chày cối tìm cách bám vào một cơ quan nhà nước nào đó để "ổn định đồng lương", cần triệt tiêu lối suy nghĩ "ăn đói nằm co hơn ăn no vác nặng" còn sót lại của một bộ phận người Nghệ. Thế hệ trẻ xứ Nghệ cần phải hiên ngang dấn thân vào khởi nghiệp. Đó là điều cần phải làm, đó là thứ cần thay đổi.

Đã hơn 50 năm, chúng ta còn mang món nợ "quá hạn" với Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Sớm xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh khá nhất miền Bắc" (Bức thư cuối cùng Bác gửi cho tỉnh nhà). Nợ với Bác nhưng thực ra là nợ với đồng bào. Ai nói "Ri là khá rồi" là một kiểu tư duy vừa rất Nghệ mà cũng vừa rất… tệ. Bi kịch không phải là sự thất bại trước mục tiêu lớn mà chính là sự thỏa mãn với mục tiêu nhỏ. Người Nghệ muốn thay đổi dứt khoát phải đoạn tuyệt với lối tư duy tự thỏa mãn thái quá này.

Người Nghệ là người Nghệ, người Nghệ không nhất thiết phải là kẻ sĩ Bắc Hà hay Hai lúa miền Tây. Đừng tìm cách "thuần hóa" người Nghệ thành một phiên bản hoàn toàn khác. Điều đó hình như chống lại những nỗ lực bảo tồn bản sắc vùng miền và cũng ngược với quy luật hình thành và phát triển. Vấn đề là người Nghệ nên "dùng" cái chất Nghệ của mình ở đâu? Với ai và liều lượng lượng thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất. Không để chất Nghệ bị hắt hủi cũng đừng tự phế truất mình ra khỏi cộng đồng "phổ thông" vì chất Nghệ! Để tăng cường hội nhập người Nghệ cần có những tiết chế, trung hòa môi trường giao tiếp, hạn chế nhược điểm mang tính rào cản. Trong rất nhiều giải pháp để sớm đưa Nghệ An trở thành tỉnh khá xin đừng bỏ ra ngoài việc khắc phục những nhược điểm của tính cách Nghệ. Đành rằng việc này đòi hỏi cần có thời gian. Vấn đề đặt ra là thay đổi gì và thay đổi như thế nào? Quá trình hình thành tính cách Nghệ có yếu tố tự nhiên như địa hình, khí hậu… nhưng đây là những cái không thể thay đổi ít nhất là trong tương lai gần. Chỉ còn có cách là thay đổi con người thôi. Người Nghệ không cần phải vứt bỏ hay lột xác gì cả. Chỉ cần người Nghệ biết nhận diện ưu nhược điểm của mình để tự mình tiết chế nó. Cố gắng đừng để ưu điểm phát triển cực đoan đến mức lệch lạc để rồi lại trở thành nhược điểm. Người Nghệ cần tiết chế nhiều thứ nhưng nếu có thể thì hãy "ngay và luôn" 3 thứ: Trước hết cần phải biết khắt khe với chính mình. Chính bệnh cẩu thả, xuề xoa, phiên phiến của người Nghệ đã làm hại người Nghệ. Cái thứ hai người Nghệ cần tiết chế đó chính là thói bảo thủ. Bảo thủ là rào cản đầu tiên và kiên cố nhất để ngăn người Nghệ hội nhập. Khai thông được điểm nghẽn bảo thủ thì người Nghệ mới có cơ hội tiếp cận với các giá trị tiến bộ khác. Cái thứ ba người Nghệ cần phải nhận ra và điều chỉnh chính là lối làm việc duy tình. Chính cảm xúc đang triệt tiêu hàm lượng khoa học trong quá trình xử lý công việc của người Nghệ. Thay đổi được ngần ấy nó sẽ kéo theo sự thay đổi khác.

Không ai có thể giúp người Nghệ bằng chính người Nghệ. Đầu tiên là cá nhân mỗi một người dân xứ Nghệ đều có bổn phận, sau đó là gia đình và cộng đồng xã hội. Câu chuyện gạn đục khơi trong tính cách Nghệ cần phải được kích hoạt mọi nơi mọi lúc mà hệ thống chính trị không thể đứng ngoài cuộc. Gọi đúng bệnh rồi thì hãy bốc thuốc để chữa trị nó. Những thay đổi tính cách Nghệ tích cực gần đây chủ yếu là xu hướng chung của xã hội. Sự tác động có chủ đích của các cấp các ngành vẫn quá ít và mơ hồ. Trường học và cả truyền thông dường như đang bỏ quên mặt trận quan trọng này.

Tài nguyên của xứ Nghệ không phải là núi rừng hay biển cả mà chính là con người. Chúng ta cần phải xây dựng một chiến lược căn cơ nhằm phát triển phẩm chất con người xứ Nghệ. Nên có một bộ tiêu chuẩn "người Nghệ" để tham chiếu. Hãy tạo cú hích thẳng vào những lô cốt tư tưởng cổ hủ. Hãy thổi vào thế hệ trẻ lòng tự hào, trách nhiệm với xứ sở và tinh thần hòa nhập để đổi mới. Người Nghệ thông minh, người Nghệ cần cù, người Nghệ can trường dũng cảm… thì hà cớ gì mà người Nghệ lại không "khá nhất"? Phải thay đổi, và chỉ có thay đổi. Tuy nhiên xin đừng nhầm lẫn giữa thay đổi gạn đục khơi trong với việc hủy hoại tính cách Nghệ. Chúng ta không khai tử nó, chúng ta làm cho mọi cái tốt lên mà thôi.

 

Huy Khánh

Thanh Chương là vùng đất có bề dày truyền thống văn hóa, yêu nước và cách mạng. Truyền thống đó được lớp lớp thế hệ các cha anh gây dựng, vun đắp và gìn giữ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nhiều dòng họ, với hàng trăm tên tuổi lừng danh non sông đất Việt như: Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị, Đinh Bộ Cương, Nguyễn Cảnh Quế, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa, Đặng Quỳnh Anh, Nguyễn Sĩ Sách, Tôn Quang Phiệt, Tôn Thị Quế, Tôn Gia Tĩnh, Nguyễn Côn, Võ Thúc Đồng, Lê Nam Thắng, Dương Văn Dật, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Đình Cầu, Trần Đình Hượu, Nguyễn Duy Qúy, Nguyễn Tài Tuệ, Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Hữu Toản, Đặng Đình Hồ, Nguyễn Ngọc Độ, Hoàng Đình Kiền, Nguyễn Ngọc Lài.v.v.. gia tộc Trần Hưng; Nguyễn Sỹ… Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ xin giới thiệu sơ lược một số danh nhân, dòng tộc đại diện cho một số thời kỳ trong lịch sử cách mạng dân tộc góp phần làm rạng danh vùng đất Thanh Chương, xứ Nghệ.

1. Nguyễn Cảnh Quế (1599 - 1658) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, từng giữ chức Tả đô đốc Phó tướng, Phò mã Đô úy tước Liêu quận công. Tổ tiên người xã Ngọc Sơn huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An. Ông là đời thứ 8 của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Nghệ An kể từ nguyên tổ Nguyễn Cảnh Lữ.

Nguyễn Cảnh Quế xuất thân trong gia đình nhiều đời làm tướng thời Lê trung hưng. Cha là Thiếu phó Tả Tư mã Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà, mẹ người họ Phạm con gái của Lai quận công Phạm Trà người huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa.

Tổ tiên ông sinh sống chủ yếu ở huyện Nam Đường nhưng do nhiều năm trấn thủ Hoan Châu, đại bản doanh ở huyện Chân Phúc (nay là thị xã Cửa Lò), cho nên ông sống ở đây cho đến khi qua đời.

Nguyễn Cảnh Quế xuất thân từ gia đình nhà võ, theo cha đánh trận và từng là thuộc tướng của cha, Thắng quận công Nguyễn Cảnh Hà. Năm 1626 tàn dư họ Mạc chiếm cứ Cao Bằng, triều đình cử Thanh đô vương Trịnh Tráng cầm quân đánh dẹp, Nguyễn Cảnh Hà cùng con Nguyễn Cảnh Quế trong trận này dùng kế hỏa công nên lập được công lớn. Cảnh Quế được phong Lộc nghĩa hầu và được chúa Trịnh Tráng gả con gái Trịnh Thị Ngọc Loan.

Năm 1630 ở Hoan Châu có tên Hiền Thuấn nổi lên quấy nhiễu nhân dân, thường áp sát, uy hiếp quan phủ nên triều đình cử Nguyễn Cảnh Quế đem quân về dẹp loạn. Ông kéo quân đến đóng tổng hành dinh ở Chân Phúc (nay thuộc Nghi Lộc), sau đó tiến hành xây dựng hào lũy, vừa đánh vừa kêu gọi đầu hàng, đánh tan đảng giặc, Hiền Thuấn bị bắt sống, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Với chiến công này ông được phong Tả đô đốc, Phó tướng, Liêu quận công, và được cử ở lại trấn thủ Hoan Châu.

Năm 1630 đến 1658 ông làm trấn thủ Hoan Châu địa phận từ huyện Quỳnh Lưu ngày nay đến sát Đèo Ngang (nay là Kỳ Anh thuộc Hà Tĩnh). Trong thời gian này ông tổ chức nhân dân mở đường, xây dựng kênh mương thủy lợi (nạo vét và đào thêm kênh nhà Lê), mở mang nông nghiệp, chiêu dân lập ấp, ngăn chặn giặc Tàu Ô xâm lấn, quấy nhiễu. Biên cương được giữ vững.

Trong thời gian trấn thủ Hoan Châu ông còn nhiều lần vâng mệnh triều đình, theo chúa Trịnh mang quân đánh dẹp tàn dư họ Mạc ở phía Bắc, quân chúa Nguyễn ở phía Nam.

Cuối năm Đinh Dậu 1657 ông lâm bệnh nặng, tạ thế ngày 18 tháng 1 năm Mậu Tuất 1658. Về sau ông được truy phong là Thượng tướng quân, Trung quân, Tả Đô đốc, Phò mã, Đô úy, Liêu quận công.

Phần mộ của ông được an táng tại xứ Cồn Nương, xã Thượng Xá, huyện Chân Phúc nay là thôn Khánh Thịnh, xã Nghi Khánh, huyện Nghi Lộc, Nghệ An.

Để tưởng nhớ công lao của ông với đất nước, ông được phối thờ cùng cố nội Nguyễn Cảnh Hoan tại xã Tràng Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An. Ngoài ra còn nhiều đền thờ, phối thờ ông như đền Cửa tại xã Nghi Khánh, Nghi Lộc... Hiện nay tại thị xã Cửa Lò có một con đường mang tên ông.

2. Gia tộc Trần Hưng ở Thanh Xuân (Thanh Chương - Nghệ An)

Gia tộc Trần Hưng có nguồn gốc từ đất Bắc, đến định cư vùng Bắc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh và Nam huyện Thanh Chương, Nghệ An từ thời Hậu Trần. Đến thế kỷ XVII, dòng họ Trần Hưng nổi lên với những nhân vật có tầm vóc lịch sử: Trần Văn Cảnh, Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng và Trần Hưng Thi. Tên tuổi của các vị không chỉ là niềm tự hào của gia tộc mà còn là niềm tự hào của quê hương xứ sở.

Người khơi nguồn, tạo gốc cho gia tộc Trần Hưng ở Thanh Xuân là cụ Trần Văn Cảnh (1585 -1655). Trong Bia hậu thần có ghi lại rằng, cụ là người "phong tư cao rộng, hình dáng khôi ngô, sức khỏe hơn người, văn võ tinh thông, làm bóng che của cây cao, góp gang tấc cho ánh sáng..., lấy trung, tín, nhân hậu làm gốc để giữ mình, làm khuôn phép cho gia tộc, chứa điều thiện trong mình, nhà có thừa phúc đức". Cụ từng giữ chức Cẩm Y vệ, Đô Chỉ huy sứ đời Lê Thần Tôn (1623), có công với triều đình và nhân dân. Sau khi cụ mất, nhân dân Bích Triều và các vùng lân cận tôn cụ là Thành Hoàng, khắc bia ghi nhớ công ơn và tôn kính thờ phụng. Cụ Trần Văn Cảnh sinh được 6 người con trai, trong đó có 3 người con nổi tiếng thông minh, mưu lược, chí khí hơn người. Đó là Trần Hưng Học sinh năm Tân Mùi, Trần Hưng Nhượng sinh năm Ất Hợi, Trần Hưng Thi sinh năm Mậu Dần (?). Được thừa hưởng tài năng, đức độ của người cha đáng kính, từ nhỏ ba anh em đều say mê học hành, khổ công rèn luyện, sớm có lòng yêu nước thương dân, trọng nghĩa khí, quyết chí phò vua giúp nước. Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước triền miên trong chiến tranh loạn lạc, những người con của gia tộc Trần Hưng đã tập hợp được hàng trăm trai tráng, luyện tập võ nghệ, tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực để bảo vệ quê hương. Năm 1655, chúa Nguyễn bành trướng ra Bắc, đem quân đánh chiếm các vùng đất Bố Chánh, Hoành Sơn, các cửa biển Kỳ La, Nam Giới và các huyện phía Nam sông Lam như Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương. Đi đến đâu, quân nhà Nguyễn cướp bóc đến đó khiến cho cuộc sống của nhân dân vô cùng điêu đứng. Căm phẫn trước những hành động bạo ngược của quan quân nhà Nguyễn, Trần Hưng Học cùng các em trai của mình đã chỉ huy nghĩa quân bí mật bất ngờ đánh úp tiêu diệt các đồn lẻ dọc sông Lam. Được sự giúp đỡ che chở của nhân dân, nhờ thông thạo địa hình rừng núi hiểm trở và tài thao lược, nghĩa quân càng đánh càng mạnh, thanh thế ngày càng lớn. Chiến công và thanh thế của nghĩa quân làm nức lòng nhân dân và làm cho tướng lĩnh của vua Lê, chúa Trịnh rất cảm phục. Họ đã tiếp kiến anh em Trần Hưng Học và hợp đồng với nghĩa quân để giải phóng vùng đất bị quân Nguyễn chiếm đóng. Đội nghĩa binh của ba anh em Trần Hưng Học luôn luôn được cử làm đội tiên phong, vừa trinh sát, vừa làm nội ứng, kịp thời đưa ra những phương án chuẩn xác góp sức cùng đại quân của triều đình giải phóng toàn bộ vùng đất bị quân chúa Nguyễn chiếm đóng từ phía Nam sông Lam đến Hoành Sơn. Từ đó nhân dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình thoát nạn binh lửa, yên ổn làm ăn, cuộc sống thanh bình trở lại. Anh em Trần Hưng Học cùng đội nghĩa binh được giao nhiệm vụ trấn giữ vùng giới tuyến phía Nam. Ghi nhận công lao to lớn của ba anh em Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng, Trần Hưng Thi, vua Lê đã ban sắc phong thăng chức và trọng thưởng. Trần Hưng Học giữ chức Thự vệ, Trần Hưng Nhượng giữ chức Tá hiệu điền, Trần Hưng Thi giữ chức Chỉ huy thiêm sự.

Trong suốt thời gian cai quản vùng giới tuyến, anh em Trần Hưng Học đã làm hết sức mình để đưa lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân, giúp nhân dân làm ăn thịnh vượng. Trong lúc nhiều dự định tốt đẹp đang ấp ủ, Trần Hưng Học không may lâm bệnh nặng và từ trần lúc mới 43 tuổi. Nhân dân và quân sĩ vô cùng thương tiếc vị dũng tướng tài ba đức độ quên mình vì nghĩa lớn. Vua Lê ban sắc phong truy tặng ông tước Nhuận quận công đại vương tôn thần.

Vùng biên giới phía Bắc tạm yên, thì bọn giặc biển lại nổi lên phía Đông Bắc, vua Lê lại cử Trần Hưng Nhượng đi dẹp giặc. Chỉ trong vòng 4 tháng dưới sự chỉ huy của Tham đốc tướng quân Trần Hưng Nhượng, bọn giặc bị dẹp tan, bờ cõi được giữ yên. Không những là vị tướng tài ba, xông pha trận mạc Trần Hưng Nhượng còn có nhiều đóng góp chấn hưng kinh tế nước nhà. Ông chỉ huy khai cảng xứ Nghệ, khơi kênh nhà Lê, khai khẩn đất hoang phát triển kinh tế cho nhân dân. Mặc dù tuổi cao nhưng ông vẫn xông pha nơi biên ải và tạ thế nơi sơn phòng thọ 75 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua Lê đã gửi sắc phong ông chức Tả đô đốc và ban tước Trung quận công.

Người con trai út của cụ Trần Văn Cảnh, tên là Trần Văn Xạ, tự Hưng Thi, biết noi theo cha,  nuôi chí lớn, cùng hai người anh trai lập được nhiều công trạng, hai lần được vua Lê sắc phong. Sắc phong thứ nhất ghi ngày 26 tháng 9 niên hiệu Vĩnh Thọ năm thứ 3 (1660) đã ghi nhận Trần Hưng Thi "có công phục tùng mệnh lệnh phá được trận giặc. Nay triều thần bàn định đồng ý gia thăng chức Phó quản lĩnh, sắc phong Trần Hưng Thi là Kình tiết tướng quân, Phụng Thánh vệ Thiên định trung sở, Phó quản lĩnh, Triều Lan bá hạ trật".Hai năm sau, năm Vĩnh Thọ thứ 5 (1662), nhờ có công lớn trong khi tiến đánh giặc ở Thuận Quảng, Trần Hưng Thi tiếp tục được sắc phong: "Phụng chỉ Khâm sai Tiết chế thủy bộ chư doanh kiêm Thống chính binh Thái úy Nghi quốc công, Đại nguyên soái, Chưởng quốc chính Thượng sư Tây vương Trịnh Căn: xếp Trần Hưng Thi vào Tả khuông quân doanh Tiền hùng đội. Trần Hưng Thi là một bề tôi kiên trinh trọng nghĩa, khi tiến đánh giặc ở Thuận Quảng đã có công nhiều lần yểm kích, chém được đầu tướng giặc, thu được cờ mũ, ngựa tốt, khí giới. Triều thần bàn định, đồng ý gộp công gia thăng chức Chỉ huy thiêm sự, giữ nguyên tước cũ. Nay sắc thêm tước hiệu Kiệt trung tướng quân, Cẩm y vệ kỳ thủ, Chỉ huy sứ ty, Chỉ huy thiêm sự, Hiển Vinh bá, thiết kị úy hạ trật".

Một nhà mà có được bốn nhân vật tuấn kiệt như thế thật đáng trân trọng, tôn vinh. Vùng đất Bích Triều vốn là chốn sơn cước, bao bọc bởi sông núi hùng vĩ. Đông Bắc là dòng Lam giang cuồn cuộn nước, án ngự phía Đông Nam là dãy Hùng Lĩnh uốn lượn mình rồng, phía Tây là dãy Trường Sơn sừng sững. Phải chăng chốn địa linh này là nơi khởi sự của anh hùng hào kiệt, để tỏa sáng khắp vùng đất nước và lưu danh sử sách mai sau.

Để ghi nhớ công ơn của anh em gia tộc Trần Hưng, nhân dân vùng đất Bích Triều đã lập đền thờ Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng, Trần Hưng Thi ở xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Hiện nay ở ba đền thờ này còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá, ghi dấu công lao to lớn của các ông trong sự nghiệp bảo vệ và chấn hưng đất nước. Năm 1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa -Thông tin đã ký Quyết định công nhận đền thờ Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đây là niềm tự hào to lớn và là tài sản tinh thần vô giá của gia tộc Trần Hưng cũng như của nhân dân vùng đất Thanh Chương giàu truyền thống yêu nước.

3. Đinh Nhật Thận (1815-1866): (gia phả chép là Đinh Viết Thận) sinh năm Ất Hợi (1815), tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, tổng Cát Ngạn này là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Đinh Nhật Thận sinh ra trong một gia đình có 6 con trai và 1 con gái. Từ nhỏ Đinh Nhật Thận đã có dáng khôi ngô và sớm tỏ ra là người hiếu đễ, dáng người chắc khỏe, đôi mắt sáng, khuôn trán rộng… Tất cả tạo nên ở người thiếu niên này một gương mặt trầm tĩnh, biết chịu đựng nhưng không dễ gì chịu khuất phục. Trong sách "Trong 99 chóp núi" Nguyễn Văn Để đã viết về ông như sau: Thật trời đã khéo tây vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay.

Ông thi đỗ Cử nhân năm 1837, rồi đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất - Minh Mạng 19 (1858), được bổ làm tri phủ. Ông được làng cấp cho 5  mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Ở đó, ông để phần lớn ruộng của mình cho bà con cày cấy mà không thu một phần nào về hoa lợi. Ông còn cho tổ chức khai khẩn thêm và chiêu mộ người đến lập thành làng Gia Hội và ấp Thanh Liêu. Ông vui thú điền viên ở đó và lấy việc giao kết với bạn hữu gần xa làm trọng, là bạn với Cao Bá Quát và Nguyễn Văn Siêu. Ông bị triều đình bắt khi Cao Bá Quát khởi nghĩa chống triều đình và bị khép tội giam chờ xử trảm. May ông giỏi nghề thuốc chữa khỏi bệnh hiểm nghèo cho thân mẫu vua nên được tha, được phục chức nhưng ông từ chối không nhận.

Trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, lương y, nhà thơ Đinh Nhật Thận qua đời ở tuổi 52, nhưng sự nghiệp y học và thi ca của ông thì còn sống mãi với thời gian. Ông để lại tập thơ Bạch Mao Am thi loại (thơ thù ứng) và nổi tiếng với bài Thu dạ lữ hoài ngâm được làm khi bị tù đày. Bài thơ được đưa vào chương trình dạy học văn của nước nhà. Về Thanh Liêu, Cát Ngạn bao đời nay ta vẫn nghe câu ca: "Non sông Giăng, nước sông Giăng, trời sông Giăng, nhớ chăng, em "Thu dạ lữ hoài Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa".

4. Đặng Nguyên Cẩn (1866-1923): Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học và cách mạng, thân sinh là Đặng Thai Hài đỗ cử nhân, em trai là Tú tài Đặng Thúc Hứa và là thân phụ của học giả Đặng Thai Mai. Ông hiệu là Thai Sơn, người làng Lương Điền, tổng Bích Hào, nay là xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương. Lúc đi thi hương lấy tên là Đặng Thái Nhẫn, đỗ cử nhân khoa Mậu Tý, năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), đỗ Phó bảng khoa Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái thứ 7 (1895), lúc này mang tên là Đặng Nguyên Cẩn. Trước khi đi thi ông đã là giáo thụ huyện Hưng Nguyên, đốc học Nghệ An, Bình Thuận. Là danh sĩ có tiếng về học vấn uyên bác, về văn thơ, nhất là trong cuộc vận động Duy Tân đầu thế kỷ. Năm 1908 trong phong trào chống thuế Trung kỳ ông bị thực dân Pháp bắt, dày đi Côn Đảo, bị tù 13 năm và được trả tự do năm 1921. 2 năm sau ông qua đời.

5. Đặng Thúc Hứa (1870-1931): Đặng Thúc Hứa (còn có tên là Đặng Ngọ Sinh) sinh năm 1870, ở làng Lương Điền, tổng Bích Hào, huyện Thanh Chương, nay là xã Thanh Xuân, Thanh Chương.

Đặng Thúc Hứa sinh ra trong gia đình yêu nước, cách mạng, từ nhỏ đã sớm có tư tưởng yêu nước, theo gương cha và không làm quan mà ban ngày đi phở trại, đêm về đọc tân thư; vận động nhân dân lập chợ, đắp đập, bắc cầu; hoạt động trong Ám xã.

Vào khoảng 1905-1906, Đặng Thúc Hứa tham gia Hội Duy Tân và được cử đi từ Nghệ An ra Bắc liên lạc với các cơ sở của Đề Thám; tham gia việc quyên góp tiền ủng hộ Đông Du.

Ông từng bôn ba hải ngoại, sang Trung Quốc, Thái Lan, đi khắp những nơi có kiều bào sống để cố kết họ hướng về tổ quốc, kiên trì xây dựng cơ sở trong kiều bào làm hậu cứ cho cách mạng; đồng thời chuyên tâm dạy dỗ thiếu niên để đào tạo lớp trẻ kế cận làm cách mạng giải phóng dân tộc sau này. Khi nghe tin ở Nghệ Tĩnh nổ ra Xô viết, ông cùng các đồng chí hoạt động cách mạng ở Thái Lan tiếp tục vận động Việt kiều ủng hộ phong trào đấu tranh của công nông Nghệ Tĩnh. Do hoạt động quá nhiều, phải chịu đựng nhiều gian khổ nên sức khỏe của Đặng Thúc Hứa bị giảm sút nhanh chóng và ngày 12/3/1931, ông đã từ giã cõi trần, thọ 61 tuổi.

Đặng Thúc Hứa là một chiến sĩ cách mạng đã bền bỉ phấn đấu trọn đời vì lý tưởng cứu nước, một trong những tấm gương kiên trung trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ.

6. Nguyễn Sỹ Sách (1905-1929): Nguyễn Sỹ Sách biệt hiệu là Kiếm Phong, sinh năm 1905, trong một gia đình nhà nho nghèo ở làng Tú Viên (nay là xã Thanh Lương), Thanh Chương, Nghệ An.

Nguyễn Sỹ Sách vốn là người thông minh, hiếu học, 11 tuổi đã đỗ đầu kỳ thi tuyển sinh, mười ba tuổi đỗ đầu kỳ thi tiểu học, mười bảy tuổi đỗ bằng thành chung khoa đầu trường trung học thành phố Vinh. Giữa năm 1924, Nguyễn Sỹ Sách được bổ dụng làm trợ giáo trường tiểu học Pháp - Việt thị xã Hà Tĩnh.

Tháng 7/1925, Nguyễn Sỹ Sách gia nhập hội Phục Việt, anh phụ trách việc xây dựng tổ chức và truyền bá tư tưởng yêu nước trong trường học.

Tháng 10 năm 1928, Nguyễn Sỹ Sách bị thực dân Pháp bắt giam. Bọn mật thám giải vào Huế, rồi đưa về Vinh. Không khai thác được gì, thực dân Pháp đành trả tự do.

Nguyễn Sỹ Sách là người dẫn đoàn đại biểu Trung kỳ sang Hương Cảng dự Đại hội Đại biểu Hội thanh niên, và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng bộ, đặc trách công tác trong nước. Thảo luận thành lập Đảng Cộng sản…

Tháng 7/1929, Nguyễn Sỹ Sách bị sa vào tay giặc, kết án khổ sai chung thân, đày vào giam ở nhà tù Lao Bảo. Trong tù Nguyễn Sỹ Sách đã bàn với các đồng chí cộng sản đấu tranh bằng các hình thức như: tuyệt thực, đưa ra 7 yêu sách. Trong lúc đấu tranh, Nguyễn Sỹ Sách đã bị bọn tay sai bắn chết. Nguyễn Sỹ Sách mất đi những tinh thần chiến đấu bất khuất của đồng chí đã cổ vũ anh em chiến sĩ cách mạng bị giam cầm lúc bấy giờ đấu tranh cho đến ngày thắng lợi.

7. Tôn Quang Phiệt (1900-1973)

Sinh ra trong một gia đình nho học, quê xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương. Tuổi nhỏ ông đã được cha sai hầu nước, trong những cuộc đàm đạo với bạn bè, các sĩ phu yêu nước. Được cha cho xuống thành phố Vinh xem học trò thi hương; và được học lớp đầu tiên của trường Quốc học Vinh vào năm 1920. Thái độ học tập nghiêm túc, tư thế đĩnh đạc Tôn Quang Phiệt được các thầy giáo, cũng như các bậc tiền bối rất xem trọng.

Ông từng tham gia thành lập Việt Nam nghĩa đoàn, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Tân Việt cách mạng đảng rồi Đông Dương cộng sản liên đoàn…

Năm 1929, ông bị bắt và bị kết án ba năm tù treo; năm 1930, Tôn Quang Phiệt bị bắt lại và bị kết án 7 năm tù và đày đi Buôn Ma Thuột. Trong khoảng thời gian ở nhà tù Buôn Ma Thuột, ông và những người tù chính trị đã biến nhà tù thành trường học chính trị, thành nơi rèn luyện ý chí cách mạng. Trong tù ông đã sáng tác nhiều thơ, hịch, truyện thơ, phú… đặc biệt xuất bản nhiều cuốn sách lịch sử có giá trị. Tấm gương sáng của một người trí thức giàu lòng yêu nước, trung thành với cách mạng, với nhân dân, chiến đấu bền bỉ, đã không ngừng tự trau dồi và rèn luyện để đạt tiêu chuẩn người cách mạng chân chính. Ông có công lớn trong việc vận động vua Bảo Đại thoái vị, giao lại chính quyền cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ năm 1946 -1963, ông liên tục là Đại biểu Quốc hội, là Ủy viên ban dự thảo Hiến pháp, PTB thường trực, UVUBTV - kiêm TTKUB thường vụ QH; là Thanh tra UBKCLK4, CTUBKCHC tỉnh Thanh Hóa, PCTUBLVLK4; CT UB đoàn kết nhân dân Á Phi của VN, PHT Hội HN Việt - Trung, UVBCH Hội HN Việt - Xô, UVUB trung ương MTTQ Việt Nam… Ông mất năm 1973, thọ 73 tuổi. Những đóng góp và công lao của ông được đảng và nhà nước ghi nhận. Ông được nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh về công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

 

Lê Văn Tùng

Từ "Truyện Kiềuđến "Từ điển Truyện Kiều"

Truyện Kiều là tác phẩm nghệ thuật đặc biệt vì có sự tích hợp truyền thống văn chương của dân tộc, văn chương của thời đại tác giả (thế kỷ XVIII - XIX) với ảnh hưởng nhất định của văn hóa Á Đông qua văn chương Trung Quốc cổ trung đại cùng sự sáng tạo thiên tài của Nguyễn Du (1765 - 1820). Trong ý nghĩa đó, "Trước Truyện Kiều không có sách gì hay bằng Truyện Kiều và sau Truyện Kiều cũng không (chưa - LVT) có sách gì hay hơn Truyện Kiều"(1).

Trong lịch sử xuất bản Truyện Kiều, bản Truyện Kiều đầu tiên có tên là Đoạn trường tân thanh với bút tích của Nguyễn Du do Phạm Quý Thích khắc in vào đầu những năm 20 thế kỷ XIX ngay sau khi Nguyễn Du qua đời nhưng đến nay không còn tìm thấy. Tính đến năm 2020 - năm kỷ niệm 200 mất Nguyễn Du thì con số lần xuất bản Truyện Kiều kể cả chữ Nôm và chữ Quốc ngữ phải đến trên 110 lần, cùng với hàng chục bản dịch và xuất bản bằng tiếng nước ngoài ở nhiều nước như: Nhật Bản, Nga, Đức, Trung Quốc, Pháp,… thì Truyện Kiều quả thật là một hiện tượng văn hóa đặc biệt của văn học Việt Nam.

Từ Truyện Kiều đã hình thành trong trí thức và nhân dân Việt Nam nhiều loại hình hoạt động văn hóa đặc thù: thơ vịnh Kiều, trò Kiều, tập Kiều, bói Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, thi xướng họa Truyện Kiều, nghiên cứu bình luận Truyện Kiều,… cùng các nghệ thuật tạo hình như hội họa, điêu khắc… Muốn thực hiện các hoạt động văn hóa ấy, người ta từ góc nhìn của mình phải đọc hiểu Truyện Kiều từng đoạn hay toàn cả. Đọc, hiểu để sáng tạo. Muốn thế, không thể không quan tâm trước hết tới nghĩa của các đơn vị ngôn từ mà Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Một số trường hợp các nhà nghiên cứu phê bình chỉ xuất phát từ ý đồ chủ quan của mình, không "đếm xỉa" tới hệ thống ngôn từ cụ thể của tác phẩm đã phán xét một cách bất công với nhân vật và với cả tác phẩm. Ngay từ thế kỷ Nguyễn Du, một trí thức nho học tài hoa, đa tình, người đồng hương Nghi Xuân với Nguyễn Du - nhà thơ Nguyễn Công Trứ hơn 70 tuổi vẫn "Gót tiên theo đủng đỉnh một hai dì", vậy mà từ lối nghĩ chủ quan về đạo đức phong kiến đã "Trách Kiều" một cách tàn nhẫn: "… Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa/ Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm". Thôi thì xuất thân từ nền học cũ như vậy cũng không lạ, sang thế kỷ XX, một thi nhân cũng đa tình không kém, từ nền học cũ nhưng đã tiếp cận nhiều tri thức Tây học là thi sĩ Tản Đà mà cũng chì chiết Kiều thậm tệ: "… Đôi làn nước mắt đôi làn sóng/ Nửa đám ma chồng nửa tiệc quan…" (Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến).

Dẫn vài ba trường hợp trong nhiều trường hợp từ hai thế kỷ vừa rồi "đọc" Truyện Kiều nhưng không quan tâm đầy đủ và đúng đắn nghĩa của ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Du dùng trong tác phẩm nên đã lạc đường trên hành trình đi tìm văn hóa của kiệt tác Truyện Kiều. Các học giả và thi nhân mà còn vậy thì người đọc bình dân lại càng khó khăn hơn khi muốn đọc hiểu Truyện Kiều. Bây giờ thì ở ta đã có sự thừa nhận cái định luật muôn thuở của loài người mà một thời kỳ trong thế kỷ XX ta thường "vô ý" bỏ quên. Đó là: đọc văn học là đọc một nghệ thuật. Mà văn học là nghệ thuật ngôn từ. Vậy thì muốn đọc Truyện Kiều một cách sáng tạo để đi tìm giá trị văn hóa đa nghĩa hết sức phong phú của tác phẩm, người đọc dẫu ở trình độ nào cũng cần quan tâm trước hết tới toàn bộ các "tế bào" ngôn từ của tác phẩm.

Ngôn ngữ Truyện Kiều đạt tới mức biểu ý, biểu cảm tuyệt vời. Nhưng ngôn ngữ ấy không chỉ thuần túy là tiếng Việt "lời quê" dễ hiểu. Do tập quán dụng ngôn của người Việt xưa có sự kết hợp nhiều yếu tố Hán Việt và tiếng Việt cổ, các yếu tố này có nhiều trong Truyện Kiều. Mặt khác, Nguyễn Du cũng sử dụng rất nhiều điển cố, điển tích trong văn liệu, sử ký, địa dư Trung Quốc cũng như trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Vì vậy, người đọc đại chúng ngày nay với phổ ngữ hiện đại không dễ dàng tiếp nhận được ngay ý nghĩa của các yếu tố ngôn từ cụ thể trong tác phẩm để hiểu tác phẩm vừa chính xác vừa sáng tạo.

Từ điển Truyện Kiều (TĐTK) của Giáo sư - học giả Đào Duy Anh là một "công cụ" văn hóa hết sức hữu ích để mọi người đọc có thể nhận được "những nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm"(2). Từ đó, người đọc có cơ sở cần thiết để kết nối các yếu tố nghệ thuật thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm, dẫn đạo cho sự sáng tạo đi tìm giá trị của kiệt tác Truyện Kiều. Về cấu tạo, cách trình bày giải nghĩa của TĐTK, bạn đọc có thể xem kỹ trong Lời đầu sách của Đào Duy Anh. Ở đây xin nêu vài điểm mong được bạn đọc đồng cảm chia sẻ.

Cuốn Từ điển quan trọng này có vận mệnh gần gũi với "thân chủ" của nó: Truyện Kiều. Cả hai đều trải qua những năm tháng lận đận, Truyện Kiều thì dài hơn đến những 200 năm, còn TĐTK cũng trải 10 năm "chiếc bách giữa dòng". Hoàn thành bản thảo vào tháng 11/1965 (200 năm sinh Nguyễn Du), cụ Đào Duy Anh gửi lên UBKHXH và Viện Sử học hồi đó "nhận được nhiều lời cổ vũ nhưng cuốn sách vẫn nằm đó không thể in được"(3). Gần 10 năm sau, đến 1974 cụ Đào Duy Anh đã thấy là vô vọng, bèn đưa bản thảo cho người em dâu là bà Trần Minh Châu (lúc ấy là Cục trưởng Cục Xuất bản) nhờ gửi vào lưu trữ thư viện. Bà Trần Minh Châu chuyển cuốn sách cho Nxb KHXH, yêu cầu đưa vào kế hoạch xuất bản. Khi gửi lên Cục Xuất bản thì "nhiều người không dám duyệt cuốn sách của Đào Duy Anh. Vì vậy, phải triệu tập Hội đồng khoa học để bàn"(4). Trong Hội đồng "Ai cũng nhận xét… bản thảo có giá trị, nhưng không ai dám quyết"(5). Hình như ai cũng sợ một cái gì đó vô hình nên chẳng dám "Cuối cùng, bà Trần Minh Châu phải lấy tư cách Cục trưởng để quyết định in"(6).

Cuốn TĐTK in lần đầu 1974 với 30.200 cuốn và "phát hành trót lọt". Năm sau - 1975 giải phóng miền Nam "Trong số sách Cục Xuất bản quyết định tái bản để đưa vào Nam phục vụ cho việc tuyên truyền chính trị thì có cuốn Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh"(7). Từ đó đến nay TĐTK đã được tái bản nhiều lần, do nhiều nhà xuất bản khác nhau. Nxb Phụ nữ tái bản năm 2007, cuối phần Từ điển đã in thêm văn bản Truyện Kiều (VBTK) do chính Đào Duy Anh khảo đính - văn bản có uy tín nhất hiện nay - để tiện đối chiếu. TĐTK là cuốn sách thật sự cần thiết cho bạn đọc Truyện Kiều, nhất là phần đông bạn đọc vốn không có điều kiện tiếp xúc nhiều với tri thức Ngữ văn học.

Vấn đề đính chính Từ điển Truyện Kiều

Theo giới thiệu của Nxb Phụ nữ: "Từ điển Truyện Kiều được tái bản nhiều lần, nhưng có một số sai sót trong lần in đầu tiên vẫn chưa được sửa chữa trong những lần in sau"(8). Chắc bạn đọc còn nhớ nhiều sách xuất bản trước đây đều có một tờ đính chính chỗ sai để bạn đọc chữa giúp. Nhiều năm lại đây đã không còn thấy hiện tượng đó, kể cả các ấn phẩm khoa học có sai cũng không sửa lại với bạn đọc. Không những các cuốn sách mà bất cứ việc gì ta làm đều có thể có sai sót.

Cụ Đào Duy Anh, một trí thức lớn nhưng đã tự giác sâu sắc về "nguyên lý bất toàn" của thế giới, sau khi hoàn thành bản thảo TĐTK đã gửi nhờ các học giả khác đọc, góp ý và đã "có lời trân trọng cảm ơn các ông… đã góp với tôi nhiều ý kiến bổ ích khiến sách này bớt được khuyết điểm"(9). Ý thức những sai sót là khó tránh khỏi, lại ý thức những sai sót ấy cần được người khác giúp sửa đúng là ý thức văn hóa rất cao của người trí thức.

Tuy vậy, việc đính chính của người khác đối với một cuốn sách hoặc với một công trình nào đó cũng phải xuất phát từ nguyên tắcmục đích mà tác giả đã giới hạn. Cuốn TĐTK, theo ý tác giả: "Chỉ chú trọng nêu lên những nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến"(10).

Cũng đã có việc hiệu đính TĐTK để tái bản, trong một số trường hợp đã vượt cao hoặc vươn rộng hơn yêu cầu "chỉ nêu những nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Vì vậy, soạn giả hiệu đính tiến sâu hơn vào bình diện Ngôn ngữ học lý thuyết hoặc Ngôn ngữ học lịch sử. Bài phê bình của nhà nghiên cứu Huệ Thiên về 20 chỗ sai sót (mới chỉ một số) trong TĐTK (Nxb KHXH, 1989 - sách được hiệu đính từ 1986) chính là do vượt cao, mở rộng ra ngoài yêu cầu trên. Chẳng hạn, người hiệu đính đi tìm nguồn gốc của một số từ ngữ trong Truyện Kiều là gốc từ tiếng Khơme, tiếng Mường hay tiếng Hán, tiếng Pháp… Đến lượt người phê bình những chỗ vượt quá đó lại còn vượt quá hơn nữa khi đi tìm từ gốc của gốc. Ví dụ từ ghép "ban ngày", "gốc ở từ Khơme: Pêl… Nhưng Pêl lại là một từ Khơme gốc Sanskrit"(11). Thế là vô tình người đọc bị đẩy ra khỏi "nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Do những lỗi đó, nhà phê bình Huệ Thiên muốn "Đối với Từ điển Truyện Kiều, chúng tôi vẫn ái mộ văn bản chưa sửa" - tức là văn bản gốc của Đào Duy Anh - "hơn là văn bản đã "sửa chữa" (văn bản đã hiệu đính - Nxb KHXH, 1989)(12).

Nxb Phụ nữ năm 2007 tái bản TĐTK từ bản gốc của cụ Đào Duy Anh (1974) sau khi đã "Cố gắng  sửa chữa những chỗ còn sai sót được bạn đọc phát hiện"(13), kể cả bạn đọc từ Mỹ gửi về "một bản đính chính dài kèm đề nghị sửa chữa"(14). Dù vậy, hiện tượng "bất toàn" vẫn đang có mặt trong TĐTK của chính Nxb Phụ nữ. Nghĩa là vẫn còn xuất hiện khá nhiều sai sót cần đính chính. Có điều, các sai sót ấy có nguồn gốc từ đâu? Theo ý cụ Đào Duy Anh, chắc chắn có một tỉ lệ sai sót từ phía tác giả, nhưng phần nhiều là do công nghệ biên tập, in ấn cuối thế kỷ XX, và cũng không phải là ngoại lệ từ chính những người hiệu đính hay đính chính sau này. Xin xem đó là hiện tượng tự nhiên trong "nguyên lý bất toàn" vậy.

Việc đính chính của chúng tôi là do yêu cầu của cá nhân mình để đọc Truyện Kiều, khởi đầu từ một tình huống ngẫu nhiên: Tìm điều mục phận trong TĐTK lại thấy tác giả ví dụ (VD): "Phận hồng nhan có mong manh" (câu 65). Theo trí nhớ của chúng tôi, câu này không phải phận mà là kiếp. Tìm vào VBTK thấy đúng như vậy: "Kiếp hồng nhan…". Lại tìm điều mục kiếp trong TĐTK, thấy tác giả giải nghĩa kiếp khác với phận. Từ đó, chúng tôi thấy cần tìm những chỗ sai khác để tự điều chỉnh cho mình khi đọc Truyện Kiều. Việc này, có thể giúp cùng bạn đọc ít nhiều và cũng mong nhận được ý sửa đúng của bạn khi chúng tôi đính chính chưa đúng.

Việc đính chính này mất rất nhiều thời gian vì TĐTK có tới 2470 mục từ chính (tác giả gọi là điều mục). Còn các từ hệ thuộc (chữ của tác giả) bao gồm các từ liền trước hay liền sau điều mục thành các từ kép, thành ngữ, từ tổ…, theo thống kê là gần 3800 đơn vị. Tổng cộng là gần 7300 đơn vị. Trong khi đọc, khảo sát nếu thấy yếu tố có khả năng sai, chúng tôi phải đối chiếu điều mục này với điều mục khác có liên quan, đồng thời đối chiếu với VBTK do chính cụ Đào Duy Anh khảo đính in sau phần TĐTK. Từ đó đề xuất cách hiểu đúng với nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Có hiện tượng từ, ngữ VBTK không đúng thì cũng nêu ra để chọn cách chữa. Một số trường hợp sai sót, chúng tôi còn phải đối chiếu, tham khảo các từ điển khác:

Hán Việt từ điển của chính cụ Đào Duy Anh - Nxb Trường Thi, S.1957.

Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học - Nxb Đà Nẵng, 2004.

Từ điển Văn học Việt Nam (từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX) - Nxb Giáo dục, H.1999.

- Từ điển văn liệu - Long Điền Nguyễn Văn Minh - Nxb Á châu, 1952.

Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - Nguyễn Lân - Nxb Văn học, 2010.

3.  Tiếp tục đính chính "Từ điển Truyện Kiều" (Nxb Phụ nữ, 2007)

Kết quả công việc khảo sát, đính chính của chúng tôi được tổng hợp thành ba loại như sau:

3.1. Loại lỗi chính tả: khoảng hơn 40 lỗi gồm 2 tiểu loại:

+ Lỗi chính tả cơ học, đơn giản: Có nhiều nhưng không cần đính chính bởi người đọc đều hiểu và chọn đúng. VD: TĐTK dẫn câu 2257: "Còn đang dùng dằng ngẩn ngơ" - đúng phải là dùng dắng. TĐTK chép điều mục Dong thành Dóng là sai, đúng phải là dong: "… bốn bề lửa dong".

Lỗi chính tả dễ dẫn đến hiểu sai thì cần đính chính:

VD: TĐTK ở điều mục Đầu dẫn cụm từ "Đầu mày cuối mặt…" (câu 498) với nghĩa "tất cả mày mặt". VBTK câu này cũng chép "cuối mặt" (Đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu). Nhưng ở điều mục Cuối, TĐTK lại chép: "Đầu mày cuối mắt…". Cuối mắt mới đúng. Mỹ học Nguyễn Du không thể chép là cuối mặt. Vì cuối mặt thì phải hiểu là cái… cằm…

3.2. Những trường hợp khác nhau giữa TĐTK với VBTK: hầu hết là TĐTK sai, VBTK đúng; cũng có mấy trường hợp VBTK sai - TĐTK đúng. Chúng tôi có bảng thống kê (chắc chắn chưa đầy đủ) để sửa đúng sau:

3.3. Đính chính những trường hợp TĐTK giải nghĩa chưa đúng với "nghĩa do Nguyễn Du dùng trong tác phẩm"

Đây là nội dung chủ yếu và quan trọng nhất khi tham gia cùng cụ Đào Duy Anh đính chính TĐTK. Phần này vừa chỉ ra và sửa chỗ chưa đúng trong Từ điển vừa lý giải và phân tích ý nghĩa theo nguyên tắc và giới hạn do chính tác giả TĐTK nêu ra trong Lời đầu sách: Chỉ nêu "những nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến".

Do thoát ly nguyên tắc đó, nhiều người giải thích nghĩa của từ ngữ từ góc nhìn khác, sai cả "nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm". Một vài dẫn chứng:

+ Hai câu 367 - 368: Một tường tuyết chở sương che/ Tin xuân đâu dễ đi về cho năng. Có học giả Trung Quốc chê Nguyễn Du là "Đem cảnh tuyết mùa đông miêu tả vào dịp xuân hè, gây mâu thuẫn, phá hoại tính thống nhất chân thực của hoàn cảnh"(15). Cụ Đào Duy Anh trong TĐTK cũng giải nghĩa: "Tuyết chở sương che: tức là trên bức tường ngăn cách lại có tuyết đọng và có sương phủ". Theo chúng tôi, cả hai cách hiểu đều xuất phát từ góc nhìn địa lý tự nhiên chứ không phải góc nhìn văn hóa của nghệ thuật ngôn từ Nguyễn Du. Từ dẫn chứng trên, phải hiểu là Nguyễn Du dùng "tuyết" và "sương" với phương thức ẩn dụ (rất phổ biến trong Truyện Kiều) của ngôn ngữ thơ để chỉ cái duyên cách giữa Kim Trọng với Thúy Kiều, gợi niềm đồng cảm với tình yêu của con người trước ranh giới của tập tục và luân lý của đẳng cấp, của thời đại.

+ Ở điều mục Ăn có từ hệ thuộc ăn mặc, TĐTK bản gốc giải nghĩa đúng: Chỉ chung sự mặc quần áo và đưa ví dụ: Thấy màu ăn mặc nâu sồng (câu 2089). Cụm từ "ăn mặc nâu sồng" được TĐTK bản hiệu đính 1986 (in 1989 do Nxb KHXH) giải nghĩa: "… lối ăn mặc nâu sồng không phải là lối ăn mặc của sư sãi Trung Quốc mà là lối ăn mặc của sư sãi Việt Nam" (trang 32). Huệ Thiên phê bình: "Không thể nói Nguyễn Du đã mặc quần áo Việt Nam cho các nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân được"(16). Chúng tôi cũng thấy cụm từ ăn mặc nâu sồng, Nguyễn Du dùng theo nghĩa hoán dụ để hướng người đọc theo con mắt của vãi Giác Duyên nhìn Thúy Kiều khi nàng vừa trốn khỏi "Quan âm các" nhà Hoạn Thư và xuất hiện ở "Chiêu ẩn am" của Giác Duyên: Cô gái mới đến là một người tu hành, thế thôi! Chứ Nguyễn Du không hề có ý miêu tả cách ăn mặc của Thúy Kiều theo lối Việt Nam hay Trung Quốc.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát cả 7300 đơn vị từ ngữ của TĐTK (Nxb Phụ nữ, 2007) và đã tìm ra 42 trường hợp giải nghĩa chưa đúng với nghĩa Nguyễn Du dùng trong tác phẩm. Trong khuôn khổ bài báo chỉ xin trình bày một số trường hợp. Số còn lại xin đăng tiếp ở số sau.

3.3.1. Ấy: Theo TĐTK có 3 nghĩa:

+ Nghĩa 2: "Đại từ, phiếm chỉ người hay vật nào đó" (có trong 8 câu). (Phiếm chỉ theo Từ điển tiếng Việt: "Chỉ chung chung, không rõ ràng cụ thể người nào, sự vật nào - đại từ phiếm chỉ" (trang 779). TĐTK ví dụ câu 80: "Ấy mồ vô chủ…". Ấy ở đây không hề phiếm chỉ mà là thực chỉ sự vật ở ngay trước mắt người nói (Vương Quan) và người nghe (Kiều - Vân): Ấy là mồ Đạm Tiên. Đừng nghĩ "mồ vô chủ" thì ấy thành phiếm chỉ. Chủ là người giữ gìn, chăm sóc chứ không phải người nằm dưới mộ.

+ Ở nghĩa 1: TĐTK "chỉ người, vật ở chỗ khác". Chưa đủ, còn có việc ấy, thời gian ấy nữa: "Thôi thì việc ấy…" (câu 768), "Lo gì việc ấy…" (câu 1547), "Từ rằng việc ấy…" (câu 2324), "Đoạn trường lúc ấy…" (câu 1324), "… dư ngày ấy thôi" (câu 2612).

+ Vậy ở nghĩa 3 theo TĐTK là "chỉ thời gian": theo chúng tôi hoặc không nên đặt ra (TĐTK chỉ nêu một câu 2440: "Binh uy từ ấy...", hoặc chuyển câu 1324 và 2612 xuống nghĩa 3 này vì lúc ấyngày ấy cũng như từ ấy thôi).

3.3.2. Cam: TĐTK chỉ thấy 2 nghĩa:

Nghĩa 1: thỏa (6 câu), VD: "… chút lòng chưa cam" (câu 456).

Nghĩa 2: đành (4 câu), VD: "…búa rìu cũng cam" (câu 1396).

+ TĐTK giải thiếu 1 nghĩa: cam là ngọt, trái với khổ là đắng, có trong 2 câu "… đến ngày cam lai" (câu 3210) và "Trân cam ai kẻ..." (câu 1258).

+ Đã thế, TĐTK lại kê dẫn hai câu này vào phần hệ thuộc hai nghĩa 1 và 2. Vậy, cam phải có 3 nghĩa: nghĩa thứ 3 là ngọt, quý (hai câu đã dẫn).

3.3.3. Lòng: TĐTK nêu 2 nghĩa:

Nghĩa 1: Ruột, bụng, chỉ sự sinh đẻ, 2 câu: "… rốt lòng" (câu 13) và "Đầu lòng…" (câu 15).

Nghĩa 2: Ruột, bụng dạ, tâm tình, ý nguyện, ý chí, 160 câu, VD: "Lòng đâu sẵn mối thương tâm" (câu 81).

+ Nên bỏ từ ruột ở nghĩa 2 để loại biệt cho rõ.

+ Từ hệ thuộc Lòng quê trong câu 1122 "Lòng quê đi một bước đường một đau" và từ hệ thuộc Nỗi quê (trong điều mục Nỗi) đều được TĐTK giải nghĩa: "Lòng thơ dại (quê mùa vụng dại)" và "Nỗi lòng quê mùa vụng dại" (câu 1318: Nỗi quê còn một hai điều ngang ngang). Cách giải nghĩa của TĐTK không đúng. Đúng phải là: Lòng thương nhớ quê hương và gia đình của người xa xứ - Ở đây là nỗi lòng của Thúy Kiều trên đường phiêu bạt tận chân trời góc bể.

3.3.4. Thẹn: Cụm từ hệ thuộc "… Thẹn lục e hồng" (câu 787), TĐTK giải nghĩa: "Hổ thẹn vì nhan sắc của mình" nhưng lại chú giải: "Lục là lá, hồng là hoa, chỉ sắc đẹp phụ nữ".

+ Không ai nói lục là lá cả mà là màu xanh của lá (diệp lục), cũng vậy hồng ở đây Nguyễn Du không nói tắt cho hoa, mà là màu hồng của hoa để tạo đối xứng thẹn lục - e hồng theo phép tỉ dụ: Nàng Kiều hổ thẹn vì sắc đẹp của mình đã "rơi đến tay hèn"...

Chú thích

(1). Trần Đình Sử tuyển tập - tập 1 - Nxb Giáo dục, 2005, tr.87.

(2), (9), (10). Đào Duy Anh - Lời đầu sách "Từ điển Truyện Kiều" - Nxb Phụ nữ, 2007.

(3), (4), (5), (6), (8), (13), (14). Đào Thế Hùng - Lời giới thiệu "Từ điển Truyện Kiều" (sđd).

(7). Trần Minh Châu - Số phận long đong của một cuốn từ điển - T/c Xưa và Nay, số 6/2004, tr.17. 

(15). Dẫn theoTrần Đình Sử tuyển tập - tập 1 (sđd) tr.79.

(11), (12), (16). Huệ Thiên trong sách Những tiếng trống qua cửa nhà sấm - Nxb Trẻ, 2004, tr369-309.

 

 




Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây