HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Cổng Thông tin khoa học công nghệ Nghệ An



BẢN BIÊN TẬP


Người biên tập:
Tên bài: Chuyên san KHXH&NV số 11/2020
Nội dung:

Thiên Trang

Nắng nóng, hạn hán kéo dài ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân ở miền Tây Nam bộ còn chưa qua thì lũ lụt ở miền Trung lại đến. Nước lũ còn chưa rút thì bão chồng bão từ biển lại vào. Dưới xuôi lũ lụt còn hoành hành thì trên núi sạt lở lại đe dọa tính mạng nhiều người; những đợt rét đậm rét hại, đóng băng tạo tuyết tàn phá cuộc sống sinh kế người dân; nước biển dâng lên đe dọa sẽ nuốt chửng nhiều đô thị khác nhau. Thiên tai trở thành một vấn đề khiến toàn thể người dân, hệ thống chính trị lẫn các tổ chức xã hội đều khiếp sợ. Nó đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng làm đau đầu những người quan tâm. Và đây cũng là thời điểm cần phải xem lại mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, dù rằng đã rất muộn màng, nhưng còn hơn im lặng để rồi vô phương xử lý. Những kinh nghiệm của các cộng đồng trong việc xử lý mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên được nhiều người quan tâm xem xét lại. Hay việc phát huy sức mạnh cộng đồng trong việc xử lý hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống. Đó những vấn đề không mới nhưng lại rất được quan tâm vì có nhiều giá trị trong việc giảm thiểu rủi ro, phòng chống thiên tai trong bối cảnh hiện nay.

Cộng đồng và văn hoá cộng đồng

Cộng đồng là một khái niệm trừu tượng. Và vì quá trừu tượng nên thường gây ra những nhầm lẫn cả vô tình hoặc cố ý. Người ta nói về cộng đồng như là một tập hợp/tập thể/nhóm/ người khác nhau có chia sẻ chung một số yếu tố văn hoá xã hội và lèo lái nó theo cách của riêng mình trong những mục tiêu nhất định. Liệu hiểu như vậy về cộng đồng có đúng hay không và có gây nên những hệ luỵ khác khi không ít người cố tình dẫn dắt khái niệm đi theo những nội hàm không phù hợp để đạt được những mục tiêu cá nhân hay nhóm khác nhau. Nó giống như cách người ta đã làm với khái niệm nhân dân trong nhiều năm qua. Vậy, cộng đồng và văn hoá cộng đồng là gì và cần hiểu như thế nào cho phù hợp?

Cộng đồng có thể được hiểu là một nhóm người có một lịch sử nhất định và gắn kết với nhau qua việc chia sẻ những đặc trưng văn hoá riêng được gọi là văn hoá cộng đồng. Văn hoá trong cách hiểu này là theo nghĩa rộng của nó. Theo Hà Hữu Nga (2020) thì khái niệm văn hóa cộng đồng có nguồn gốc từ các xã hội nông thôn truyền thống, gắn kết trong phạm vi một địa bàn nhất định, và mang ý nghĩa là tinh thần chung, có chung các chuẩn mực về quê hương bản quán, phong tục, tôn giáo, các giá trị và bản sắc. Như vậy, cộng đồng ban đầu gắn với nông thôn với yếu tố đầu tiên và quan trọng là địa bàn sinh sống nhất định, mà các giá trị văn hoá cốt lõi gắn kết cộng đồng là chuẩn mực quê hương bản quán, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, các giá trị và bản sắc. Tuy nhiên, ngày nay, khái niệm văn hoá cộng đồng cũng được thay đổi theo hướng "mở rộng, vừa kế thừa các yếu tố truyền thống trên, nhưng lại chuyển tải các đặc trưng thời đại" (Hà Hữu Nga 2020, trang 3). Theo đó, có 4 đặc trưng quan trọng nhất của văn hoá cộng đồng bao gồm: Đặc trưng địa điểm của văn hóa cộng đồng: là nơi mọi người có những điểm chung, và yếu tố chung này được hiểu về phương diện địa lý, còn có một cách gọi khác là "tính địa phương". Đặc trưng cộng cảm của văn hóa cộng đồng: là cảm giác gắn bó với một địa điểm, nhóm hay ý tưởng; "cộng cảm" không chỉ với người khác mà còn với các ý niệm siêu việt như Thần, Phật, Thượng đế, Thiên Chúa, Tạo hóa, v.v... Willmott cho rằng "Cần phải bổ sung thêm một cách hiểu biết nữa về cộng đồng - là cộng đồng gắn bó - vì các cộng đồng địa phương hoặc cộng đồng sở thích có thể không có ý thức về bản sắc chung" (Willmott 1986). Nói cách khác, theo Cohen: "Cộng đồng đóng một vai trò tượng trưng quan trọng trong việc tạo ra cảm giác thuộc về ai, cái gì hoặc ý niệm nào đó, một yếu tố quan trọng mà Putnam gọi là "vốn xã hội" (Cohen 1985: 118). Đặc trưng sở thích của văn hóa cộng đồng: còn gọi là cộng đồng "tự chọn", mọi người có chung một số đặc điểm nào đó không nhất thiết phải là đặc điểm địa phương. Các cộng đồng tự chọn và các cộng đồng có chung sở thích là một đặc điểm chính của cuộc sống đương đại (Hoggett 1997). Và chúng tôi muốn bổ sung thêm biến số thứ tư: Đặc trưng lợi ích của văn hóa cộng đồng: có thể coi đây là một biến số trung tâm của khái niệm cộng đồng hiện đại với vô số biến thể khác nhau của các nhóm lợi ích gắn liền với các lĩnh vực/ khía cạnh môi trường, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, an ninh v.v. Trong xã hội ngày nay có vô số cộng đồng sở thích/ lợi ích không thuần túy mang đặc trưng truyền thống địa phương, mà pha trộn nhiều bản sắc khác nhau, tạo thành những bản sắc cộng đồng mới (Hà Hữu Nga 2020, trang 3-4).

Nói đến văn hoá cộng đồng thì phải nói đến bản sắc văn hoá cộng đồng. Theo Hà Hữu Nga (2020, trang 4), "Bản sắc (văn hoá) của một cộng đồng là sự đồng nhất của tất cả các thành viên trong cộng đồng đó với một hoặc một hệ giá trị thường được biểu hiện bằng một hoặc một hệ biểu tượng được cộng đồng sáng tạo và/hoặc lựa chọn". Trên phương diện xã hội, bản sắc văn hoá cộng đồng là một thuộc tính được cấu thành và được sáng tạo nên, còn tính cách cộng đồng thì biểu hiện những thuộc tính văn hoá đã được định hình và bền vững. Bản sắc văn hoá cộng đồng giữ một vai trò quan trọng trong việc định danh, phân biệt cộng đồng vì nó tạo nên sự khác biệt giữa các cộng đồng.

Tóm lại, cộng đồng theo nghĩa ban đầu là một nhóm người gắn với địa bàn cư trú và chia sẻ nhiều giá trị văn hoá cốt lõi. Và càng ngày, khái niệm cộng đồng càng được mở rộng theo các hướng khác nhau nhằm bao quát hơn về hiện thực xã hội và sự thay đổi của nó. Mỗi cộng đồng đều có bản sắc văn hoá riêng và nói đến cộng đồng là nói đến những nhóm người nhất định gắn với hệ thống giá trị của nó. Nên cộng đồng cũng cần phải được hiểu cụ thể là những ai và đặc trưng của họ là gì. Trong sự phát triển, cộng đồng giữ vai trò vô cùng quan trọng khi mà những giá trị văn hoá của nó được các thành viên chia sẻ và nó trở thành những thể chế quản trị xã hội. Vậy nên, trong bối cảnh lịch sử nhất định, khai thác các giá trị văn hoá cộng đồng vào việc quản trị xã hội hay tìm những con đường phát triển bền vững là vô vùng quan trọng. Đối với vấn đề phòng chống thiên tai hiện nay cũng không ngoại lệ, bên cạnh những liệu pháp khoa học hiện đại thì cũng cần nghiên cứu và vận dụng các giá trị văn hoá cộng đồng một cách phù hợp.

Tri thức cộng đồng bản địa về mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên

Khởi nguyên của khái niệm cộng đồng là để chỉ các khối dân cư vùng nông thôn, vốn là những nhóm người phải đối diện với nhiều thiên tai hàng năm. Vậy nên, trong hầu hết kho tàng tri thức của cộng đồng đều có những tri thức liên quan vấn đề giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra. Trong đó, tri thức về khai thác và quản lý các nguồn tài nguyên là yếu tố giữ vai trò quan trọng. Vậy nên trong thời gian gần đây, những nghiên cứu về việc khai thác và vận dụng tri thức cộng đồng vào việc quản lý tài nguyên, giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tiêu biểu như các nghiên cứu của Vi Văn Đông (1997), Nguyễn Ngọc Thanh (2011), Trần Hữu Sơn (2008, 2014, 2017), Nguyễn Ngọc Thanh và Ngô Thị Chang (2016),… Tuy nhiên, xét cho cùng đây cũng là những nghiên cứu đi sâu tìm hiểu những ứng xử của các cộng đồng tộc người sinh sống ở miền núi đối với môi trường tự nhiên và xem đây như là sự thích ứng cũng như những nỗ lực lý giải cho việc suy thoái tài nguyên trong nhiều năm gần đây. Trong khi đó, vấn đề rộng lớn hơn, vốn đã được nhiều học giả lớn quan tâm, là vấn đề về thế giới quan, về quan điểm nhân sinh trong mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên. Với nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi thì con người, mà cụ thể ở đây là chính họ, là một phần nhỏ của tự nhiên, thuộc về tự nhiên. Triết lý quan trọng nhất của các cộng đồng này chính là sống hài hoà với tự nhiên. Họ không có khát vọng cải tạo tự nhiên, càng không sở hữu tự nhiên. Bởi họ cũng chỉ là một phần tự nhiên. Một minh chứng dễ dàng nhận thấy nhất là ứng xử của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số vùng miền núi với tài nguyên rừng. Những người Mông trên đỉnh núi cao hay các cộng đồng tộc người ở Tây Nguyên đều xem mình là một phần của rừng. Họ không coi rừng là của bản, rừng của mình mà bản thân mình hay bản làng là của rừng, thuộc về rừng. Nên rừng là Giàng, là Mẹ, là một đấng linh thiêng. Nói cách khác, rừng là một nhân tố quan trọng trong cấu trúc văn hoá của cộng đồng. Rừng thiêng nên không phải ai cũng có thể vào rừng, và không phải ứng xử với rừng như thế nào cũng được. Còn những người miền xuôi quan niệm về rừng khác với người miền núi. Họ xem rừng như là một nguồn tài nguyên để khai thác. Đối với các nguồn tài nguyên khác như đất, nước cũng tương tự. Mỗi một cộng đồng đều có những quan niệm và hệ thống tri thức bảo vệ và quản lý tài nguyên riêng. Nhìn chung là các cộng đồng bản địa đều lựa chọn cuộc sống hài hoà với tự nhiên, trân trọng và có phần nào đấy là sợ hãi đối với tự nhiên.

Thực ra, nghiên cứu về quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên đã được các nhà khoa học quan tâm từ lâu. Trong những nghiên cứu của mình, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi đã nhiều lần đề cập đến mối quan hệ này. Giữa những năm 1970, trong công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa người Mường và môi trường tự nhiên đồi núi, Từ Chi đã nhận định rằng nhiều nét đặc trưng văn hóa của người Mường được hình thành trong quá trình thích nghi và khai phá đồi núi để sinh sống. Đây là mối quan hệ kép, tác động hai chiều, con người vừa là tự nhiên, vừa là lực lượng cải tạo, khai thác tự nhiên nhưng cũng là chịu ảnh hưởng và quy định của môi trường tự nhiên (Nguyễn Từ Chi, 1976). Sau đó, quan hệ con người với môi trường tự nhiên, được ông tổng kết lại rằng: "Thực ra, từng nền văn hóa, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng, để tồn tại, phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó" (Nguyễn Từ Chi, 1996a, tr 554). Tuy coi trọng tính thích ứng của nền văn hóa, nhưng Từ Chi cũng nhấn mạnh: "Trước sức cản trở mà thiên nhiên gây ra đối với cuộc sống của mình, con người không thể vượt qua thuần bằng sức mạnh bản năng như các động vật khác, mà chỉ có thể đối đầu bằng cách cùng cộng đồng mình cải tạo tự nhiên, thay đổi bộ mặt của nó, buộc nó không còn là thiên nhiên như cũ nữa, bắt nó phục vụ lại mình" (Nguyễn Từ Chi, 1996a, tr 555). Theo Từ Chi, có hai yếu tố chính quyết định đến diện mạo của nền văn hóa tộc người, thứ nhất là môi trường tự nhiên mà tộc người đó định cư và thứ hai là nguồn gốc của tộc người đó (Nguyễn Từ Chi, 1996b, tr 415-416). Những kết quả nghiên cứu dân tộc học của Từ Chi về mối quan hệ giữa con người với môi trường đã đi đến kết luận rằng: "Nguồn gốc tộc người, có sự giao lưu văn hóa, nhưng điều kiện cho một nền văn hóa ra đời-môi trường, mới là cái quan trọng nhất. Nghiên cứu môi trường, nói nôm na là nghiên cứu sự ứng xử của con người với môi trường để sản sinh ra các nền văn hóa là một công việc cực kỳ quan trọng của ngành dân tộc học" (Nguyễn Từ Chi, 1996b, tr 416). Những quan điểm nghiên cứu đó cho thấy Từ Chi là một nhà nghiên cứu đã vận dụng những lý thuyết về nhân học sinh thái, mà ở đây chủ yếu là sinh thái học văn hóa (hay cũng có thể nói ở một góc độ khác là nhân học văn hóa) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với môi trường.

Những nghiên cứu của Từ Chi đã có ảnh hưởng nhất định đến các nhà nghiên cứu dân tộc học khác. Đầu những năm 1980, một số nhà dân tộc học bắt đầu quan tâm đến vấn đề mối quan hệ con người và môi trường trong các nghiên cứu dân tộc học. Trước hết là một cái nhìn tổng quan của Khổng Diễn về địa lý tộc người và việc nghiên cứu ở nước ta (Khổng Diễn, 1981). Dù chưa phải là nghiên cứu chuyên sâu về sinh thái học nhưng dưới góc nhìn địa lý học tộc người, bài viết đã phần nào phác họa và đặt ra một số vấn đề nghiên cứu về môi trường với con người, cụ thể là các dân tộc thiểu số. Sau đó, ông tiếp tục đi sâu nghiên cứu và hoàn thành bài viết "Mối quan hệ giữa môi trường và con người miền núi nước ta" (Khổng Diễn, 1998). Trong khi đó, Diệp Đình Hoa trong một nghiên cứu lại đặt ra vấn đề bảo vệ môi trường và an ninh biên giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở miền núi (Diệp Đình Hoa, 1982). Hai nhà nghiên cứu khác là Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng lại đi sâu phân tích những ảnh hưởng của hệ sinh thái đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một cộng đồng cụ thể là người dân tộc Thái (Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, 1982). Càng về sau này, những quan tâm nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với môi trường càng được các nhà dân tộc học chú ý hơn.

Nhìn chung, con người với môi trường tự nhiên có quan hệ qua lại với nhau. Con người là một phần tự nhiên nhưng cũng luôn tìm cách tác động vào tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Nhưng càng ngày, với những công cụ hiện đại hơn, con người đã tác động quá mạnh mẽ khiến tự nhiên bị thay đổi và sự thay đổi đó quá nhanh và mạnh nên tạo ra những thiên tai tác động ngược lại con người. Để con người sống hài hoà hơn với tự nhiên thì cần quan tâm đến các tri thức quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý. Con người cần phải biết sợ tự nhiên, bởi tự nhiên sinh ra con người và dù phát triển đến đâu thì con người cũng chỉ là một phần của tự nhiên.

Xử lý hậu quả thiên tai từ sức mạnh cộng đồng

Thiên tai luôn đổ xuống đầu những người nghèo. Đây không phải là một định kiến về văn hoá mà là một diễn ngôn thể hiện năng lực giải quyết vấn đề cuộc sống cũng như giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra của những người nghèo. Bởi họ không có nhiều lựa chọn trong cuộc sống nên phải đối diện và hứng chịu những hậu quả do thiên tai gây ra. Trong khi đó, việc khai phá tự nhiên quá mức gây đứt gãy môi trường tự nhiên lại đến từ nhiều nhóm khác mà nhóm nghèo thường thuộc nhóm tác nhân thứ yếu. Ví như xây dựng một nhà máy thuỷ điện thì phá huỷ rất nhiều rừng đầu nguồn và làm ảnh hưởng đến các dòng chảy. Và hầu như nhóm người nghèo không can thiệp được vào việc xây dựng thuỷ điện. Nhưng lũ lụt, sạt lở thì thường lại đe doạ trực tiếp cuộc sống của người nghèo. Vậy nên, nếu để mặc những người nghèo xử lý hậu quả mà thiên tai gây ra thì khó khăn hơn nhiều và tiềm ẩn nhiều nguy cơ về xung đột xã hội hơn. Do vậy, phát huy sức mạnh cộng đồng vào việc xử lý hậu quả, tác hại do thiên tai gây nên cũng là một vấn đề quan trọng.

Ở đây, chúng ta cần hiểu là khái niệm cộng đồng đã được mở rộng như các lập luận ban đầu đưa ra trong bài viết. Nếu cộng đồng trong nội dung phía trước tập trung vào các cộng đồng bản địa, lấy yếu tố địa điểm sinh sống và đặc trưng văn hoá làm cơ bản, thì cộng đồng tham gia vào việc xử lý các tác hại do thiên tai gây ra có thể hiểu rộng hơn, là những cộng đồng chung sở thích, chung lợi ích hay chia sẻ một số giá trị khác trong xã hội. Thậm chí là những cộng đồng được xây dựng qua các mạng lưới xã hội khác nhau, bao gồm cả những mạng xã hội công nghệ thông tin tạo ra.

Khi có thiên tai gây ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, nhiều cộng đồng khác nhau đã cùng chung sức để khắc phục hậu quả và giúp đỡ người dân vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Trong đó tập trung hầu hết vào việc quyên góp ủng hộ tiền bạc cũng như vật chất để hỗ trợ, giúp đỡ những người dân nghèo vùng bị thiên tai ảnh hưởng mạnh mẽ. Sự quyên góp được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau và cách thức tiến hành hỗ trợ, giúp đỡ cũng khác nhau. Bên cạnh những cộng đồng chính trị được các tổ chức Đảng và Nhà nước lãnh đạo thực hiện các công tác hỗ trợ theo hình thức truyền thống, chủ yếu thông qua sự đóng góp của những người làm việc trong lĩnh vực nhà nước và cũng thực hiện sự hỗ trợ qua hệ thống chính trị. Thì những năm gần đây xuất hiện nhiều cộng đồng dân sự khác nhau tham gia vào việc hỗ trợ những người dân nghèo vùng bị thiên tai tàn phá để ổn định cuộc sống. Những cộng đồng này là những nhóm người có quan hệ xã hội với nhau thông qua sự chia sẻ một số giá trị chung. Họ liên kết chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện và cách làm của họ mang tính trực tiếp tương đối hơn mà không qua hệ thống chính trị. Thường thì các cộng đồng này thực hiện sự hỗ trợ của mình thông qua một số cá nhân có sức lan toả mạnh mẽ. Trường hợp như Phan Anh năm 2016 hay Thuỷ Tiên năm 2020 khi đứng ra kêu gọi cộng đồng ủng hộ để cứu trợ những người bị lũ lụt ở miền Trung là điển hình và được nhiều người biết đến. Nhưng họ không phải làm việc riêng lẻ mà có cả một cộng đồng chia sẻ cùng nhau từ việc quyên góp tiền bạc đến quá trình thực hiện, phương án tiến hành và cả phương thức, kế hoạch. Từ hàng chục tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng được nhiều người đóng góp và qua những nhóm người này đã đến với những người dân vùng bị lũ lụt. Cách làm của các cộng đồng dân sự này thường cố gắng tối đa hoá sự minh bạch thông tin cũng như tài chính cho những người liên quan nắm được. Và những người tham gia hỗ trợ cũng đặt niềm tin vào nhóm người mà họ lựa chọn để gửi gắm tình cảm của mình cho người vùng thiên tai. Vì các cộng đồng hiện đại liên kết với nhau lỏng lẻo hơn nên những quy định ràng buộc cũng hạn chế hơn và đương nhiên tính linh động của nó cao hơn so với các cộng đồng truyền thống vốn được liên kết bằng một hệ thống thể chế nghiêm ngặt. Nhưng trong những trường hợp khẩn cấp thì những cộng đồng có tính linh động cao thường xử lý vấn đề một cách hiệu quả hơn.

Trong xã hội hiện đại có nhiều cộng đồng khác nhau, không chỉ là những cộng đồng văn hoá địa phương như trước đây mà còn nhiều cộng đồng khác tồn tại dựa trên các mối quan hệ lỏng lẻo hơn với một vài đặc trưng được những người trong cộng đồng chia sẻ. Thực chất đây là những nhóm xã hội dân sự hình thành dựa trên các mối liên hệ khác nhau từ nghề nghiệp, lợi ích, sở thích, hoàn cảnh, độ tuổi, giới tính…. Các cộng đồng hiện đại có nhiều nguồn lực khác nhau và có tính linh động cao. Vậy nên, phát huy được sức mạnh của cộng đồng vào việc xử lý hậu quả, ổn định cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai là điều có giá trị rất lớn. Không phải cái gì chính quyền nhà nước cũng cần phải làm và có thể làm, mà có những việc nên động viên nguồn lực toàn xã hội, trong đó cần phát huy được sức mạnh cộng đồng.

Phát triển bền vững dựa vào nhân tố cộng đồng

Ở trên đây, chúng ta vừa thảo luận về hai vấn đề liên quan đến vai trò của cộng đồng trong phòng chống thiên tai và xử lý hậu quả do thiên tai gây ra cho cuộc sống người dân. Đây là hai vấn đề liên quan đến khái niệm cộng đồng và sự thay đổi của nó trong những bối cảnh nhất định. Trong phần đầu, khi nói về cộng đồng với nghĩa là những cộng đồng có sự liên kết về mặt lịch sử văn hoá lâu dài. Qua hàng trăm năm sinh tồn và phát triển, các cộng đồng này đã hình thành những hệ thống tri thức liên quan đến việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nhằm bảo vệ sự hài hoà mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên. Các cộng đồng với thiết chế truyền thống luôn coi trọng mối quan hệ hài hoà với tự nhiên. Và mối quan hệ hài hoà đó có giá trị rất lớn đối với quá trình phát triển của con người. Nhưng trong một thời gian dài, người ta xem những tri thức đó của cộng đồng bản địa là lạc hậu, có ít giá trị trong việc cải tạo, chinh phục tự nhiên. Tuy nhiên, khi đối diện với những trận thiên tai ngày một nặng nề hơn làm cho người ta tỉnh ngộ và hiểu rằng sống hài hoà với tự nhiên là điều vô cùng quan trọng nếu con người còn muốn tiếp tục sinh tồn dài dài. Phần thứ hai cũng liên quan đến cộng đồng nhưng theo một nghĩa khác là những cộng đồng hiện đại không phải dựa trên những mối liên kết về lịch sử văn hoá mà đa dạng hơn và linh động hơn. Thiên tai tàn phá cuộc sống con người ngày càng ghê gớm hơn nên hậu quả cũng nặng nề hơn. Vậy nên ngoài những hỗ trợ đến từ các chính sách nhà nước thì cần sự hỗ trợ của các cộng đồng khác nhau để giúp những người dân nghèo bị ảnh hưởng của thiên tai có điều kiện ổn định cuộc sống. Sự minh bạch thông tin, linh động về hình thức tổ chức và tự nguyện về sự tham gia là những thế mạnh của các cộng đồng hiện đại. Vậy nên, nó vừa bổ trợ được cho những yếu khuyết của hệ thống chính trị lẫn thị trường, vừa phù hợp trong những trường hợp cần giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng.

Trong xã hội hiện đại, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ nên khả năng khai thác tài nguyên, cải tạo tự nhiên của con người càng mạnh mẽ hơn. Và sự tàn phá của con người với tự nhiên cũng khủng khiếp hơn. Người ta nghĩ mình đã làm chủ được tự nhiên, chinh phục xong tự nhiên mà quên đi rằng mình là một phần nhỏ của tự nhiên mà thôi. Vậy nên, cái giá phải trả của quá trình chinh phục, tàn phá tự nhiên là thiên tai liên miên, năm sau lại nặng nề hơn năm trước. Nhiều vấn đề môi trường và nhiều thiên tai vượt ra khỏi ranh giới cộng đồng, ranh giới quốc gia và trở thành vấn đề toàn cầu. Và phát triển bền vững là con đường mà phần lớn các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn trong gần nửa thế kỷ qua. Phát triển bền vững có nhiều giai đoạn và nhiều mục tiêu cũng như phương pháp khác nhau. Trong đó, có xu hướng hiện nay là phát triển bền vững lấy cộng đồng làm nhân tố trung tâm. Đây là xu hướng được nhiều nhóm coi trọng vì những vấn đề liên quan đến môi trường thường không thể thực hiện theo tư cách cá nhân, và cũng không dễ thực hiện ở cấp độ quốc gia, nên cộng đồng là đơn vị có thể mang lại hiệu quả. Dù rằng cộng đồng là một khái niệm trừu tượng, nhưng nó luôn có giá trị bởi sự chia sẻ các giá trị chung của các thành viên. Khi các mục tiêu được các cộng đồng đặt ra thì thường các thành viên sẽ nỗ lực để hoàn thành. Và quan trọng hơn, người ta còn hướng đến xây dựng những cộng đồng lấy mục tiêu phát triển bền vững làm trọng tâm và cũng là lực liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng đó. Điều đó mở ra tương lai cho việc hình thành những hệ thống các cộng đồng lấy mục tiêu phát triển bền vững làm trọng tâm để phát triển và nó sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, hạn chế biến đổi khí hậu và qua đó giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra.

 

 

 

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Từ Chi (1976), Người Mường và núi đồi, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 89-101.

2. Nguyễn Từ Chi (1996a), Từ định nghĩa của văn hóa, In trong "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

3. Nguyễn Từ Chi (1996b), Quanh chuyện cảnh quan và bộ mặt tộc người, In trong "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

4. Khổng Diễn (1981), Vài nét về địa lý tộc người và việc nghiên cứu ở nước ta, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr 23-28.

5. Khổng Diễn (1998), Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người ở miền núi nước ta, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 15-20.

6. Diệp Đình Hoa (1982), Phát triển kinh tế xã hội miền núi với những vấn đề bảo vệ môi trường và an ninh biên giới, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr 17-27.

7. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1982), Hệ sinh thái với kinh tế và xã hội dân tộc Thái, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr 28-37.

8. Hà Hữu Nga (2020), Vốn văn hoá và phát triển du lịch, Tài liệu TS Trần Hữu Sơn chia sẻ.

9. Trần Hữu Sơn (2008), Người Dao Họ ứng xử với nguồn nước, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 286.

10. Trần Hữu Sơn (2014), Ứng xử với người Dao với biến đổi khí hậu, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 2.

11. Trần Hữu Sơn (2017), Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao ở Tây Bắc, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

 12. Nguyễn Ngọc Thanh (2011), Dân tộc Dao với tập quán sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 12.

Nguyễn Ngọc Thanh và Ngô Thị Chang (2016), Quy ước sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Dao ở Việt Nam, In trong "Nhân học ở Việt Nam: một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo". Nxb Tri thức, Hà Nội.

 

Nguyễn Ngọc Chu

 

1. Về tác động đa dạng của thủy điện ở ba miền Bắc - Trung - Nam

Thuỷ điện là nguồn năng lượng quý giá. Nhưng phải được sử dụng một cách khoa học. Nếu không, nó sẽ mang lại những tác hại khôn lường. Với Việt Nam, thuỷ điện đang mang đến những thách thức sống còn cho nhiều thế hệ con người, động vật, sinh vật trên phạm vi toàn lãnh thổ.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, việc Trung Quốc xây hàng chục thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Mê Kông là những cú đòn chí tử lên toàn bộ môi trường sống. Sau Trung Quốc, các đập thuỷ điện của Lào, Campuchia trên sông Mê Kông, của Myanmar, Thái Lan và Việt Nam trên lưu vực sông Mê Kông đã đồng loạt trở thành những đòn đánh bồi tổng hợp - đưa môi trường sống ở đồng bằng sông Cửu Long dần vào hoàn cảnh nguy hiểm.

Mức nước sông Cửu Long bị khô cạn. Trong nước không còn phù sa. Nước biển lấn tràn sâu vào nội địa lên đến 80-100 km. Toàn bộ môi trường sống của đồng bằng sông Cửu Long bị thay đổi. Phải chống ngập mặn, chống hạn hán, tìm nguồn nước ngọt. Con người, cây trồng, sinh vật,... bị đe doạ. Mức đe doạ đạt tới biên giới sinh tử. Hàng chục vấn đề trầm trọng đặt ra cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Phải thay đổi cơ cấu cây trồng, thuỷ sản. Phải thay đổi cơ cấu cư dân.

Ở đồng bằng sông Hồng, tuy chưa có mức độ ngập mặn, nhưng một bức tranh xấu đang hiện ra mỗi ngày một ảm đạm hơn. Nếu thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Thác Bà vừa đưa lại nguồn điện, vừa giúp cắt lũ cho thủ đô Hà Nội, có làm cạn dòng chảy sông Hồng, nhưng chưa đến mức nguy hiểm, thì việc xây dựng thêm các thuỷ điện Sơn La, Lai Châu và cả trăm thuỷ điện khác trên lưu vực sông Đà và sông Lô đã làm cho đồng bằng sông Hồng rơi vào hoàn cảnh môi sinh bị đe doạ. Chưa kể đến trước đó, hàng chục thuỷ điện của Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn sông Hồng - là những chiếc thòng lọng đón chờ mọi cá thể trong toàn bộ hệ sinh thái châu thổ sông Hồng. Các dòng sông, mạch nước ngầm bị cạn. Kéo theo sự thay đổi của thuỷ mạch và toàn bộ hệ sinh thái ở châu thổ sông Hồng. Thuỷ mạch thay đổi, các vết nứt địa chất gia tăng khi phải hứng chịu hai khối nặng khổng lồ ở Hoà Bình và Sơn La, mỗi hồ nước nặng khoảng 10 tỷ tấn và 10 tỷ tấn ở các hồ nước khác. Khả năng gia tăng động đất là không tránh khỏi.

Ở miền Trung, thuỷ điện đưa đến các hậu quả không kém phần nguy hiểm, nhưng có thêm phần khác lạ. Với địa hình dốc từ Tây sang Đông, có nơi chỉ 40-50km, sông miền Trung ngắn nhưng có độ dốc lớn. Chính độ dốc lớn của sông miền Trung là nguyên do sinh ra chi chít những thuỷ điện nhỏ. Nơi đây, cứ cách khoảng 10-20 km, thậm chí 5 - 7 km đắp một chiếc đập là tạo nên một trạm thuỷ điện. Cụ thể như trên 24 km của sông Rào Trăng mà có đến 4 nhà máy thuỷ điện. Và đó cũng chính là nguồn cơn đưa đến tai hoạ lũ lụt và sụt lở đất nguy hiểm ngày một nhiều hơn.

Rõ ràng, ngoài tai họa biến đổi hệ sinh thái và môi trường sống ở cả 3 miền, thì tác động của thuỷ điện ở mỗi miền có những phương diện khác biệt. Thuỷ điện đưa đến cho đồng bằng sông Cửu Long trực diện nạn hạn hán, nạn ngập mặn, nạn thiếu nước ngọt - dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế và cư dân. Còn ở đồng bằng châu thổ sông Hồng thì thuỷ điện mang đến sự thay đổi thuỷ mạch và tăng nguy cơ động đất. Và ở miền Trung, thì thuỷ điện tham gia đưa đến các cơn lũ lụt và sụt lở đất kinh hoàng.

2. Phải hiểu cho đúng khái niệm rừng tự nhiên

Loài người xuất hiện sau rừng tự nhiên. Đó là điều không phải bàn luận. Cho nên mỗi m2 rừng trước đây đều là rừng tự nhiên. Khi con người tiến vào rừng, đất nhà, đất nương rẫy của họ đều là rừng tự nhiên bị họ khai phá. Theo đánh giá, thì lượng rừng nguyên sinh của Việt Nam chỉ còn khoảng 0,25% (https://thanhnien.vn/thoi-su/rung-nguyen-sinh-con-nguyen-ven-cua-viet-nam-chi-con-025-1303817.html). Dù rằng theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, thì tính đến ngày 31/12/2019 diện tích đất có rừng của Việt Nam là 14,6 triệu ha (146.000 km2), trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha và rừng trồng là 4,3 triệu ha. Diện tích đất có rừng đủ tỷ lệ tính độ che phủ là 13,8 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 41,89% diện tích toàn quốc (https://nongnghiep.vn/cong-bo-hien-trang-rung-toan-quoc-nam-2019-d262978.html). Tỷ lệ che phủ này thấp hơn 2 nước láng giềng là Lào (58%) và Campuchia (47%). Ba tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất, dẫn đầu là Nghệ An (784.340 ha), tiếp theo là Sơn La (588.343 ha) và Kon Tum (547.800 ha).

Theo thông tin của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cho biết, ở độ dốc 5-8 độ, dưới lượng mưa hàng năm 1.905mm thì trên 1 ha đất cà phê 2 tuổi sẽ bị trôi đi 69,2 tấn đất, 1 ha đất nương rẫy sẽ bị trôi đi 95,1 tấn đất, trên 1 ha đất trồng ngô sẽ bị trôi đi 105,7 tấn đất. Nhưng trên 1 ha đất rừng nguyên sinh chỉ bị trôi đi không quá 6 tấn đất, và 1 ha đất rừng tái sinh bị trôi đi 12 tấn đất. Những con số trên nói lên sự vô giá của rừng nguyên sinh trong bảo vệ đất. Đưa ra số liệu trên để thấy tại sao nạn sụt đất kinh hoàng đã xảy ra như trong các cơn lũ lụt thời gian vừa qua ở các tỉnh miền Trung. Đó là vì rừng tự nhiên bị tàn phá. Trong sự huỷ diệt rừng tự nhiên ở Việt Nam có vai trò không nhỏ của thuỷ điện.

3. Diện tích dành cho thủy điện nhỏ miền Trung tuyệt đại đa số lấy từ đất rừng tự nhiên

Bằng điện thoại cầm tay, với sự giúp đỡ của Google maps, không khó để nhận thấy các thuỷ điện nhỏ hoàn toàn nằm trong rừng tự nhiên. Hãy thử tự kiểm nghiệm các thuỷ điện A Lin B1, A Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 để thấy điều khẳng định này. Nghĩa là toàn bộ đất cấp cho thuỷ điện, trừ một phần nhỏ hồ tự nhiên có trước, đều hoàn toàn thuộc về diện tích rừng tự nhiên. Phần hồ mở rộng (nhiều lần) - hình thành sau khi đắp đập thuỷ điện - cũng đều là diện tích của rừng tự nhiên. Hơn thế nữa toàn bộ các đường giao thông đi đến các nhà máy thuỷ điện này đều làm trên đất rừng tự nhiên.

Một nguyên do khác nữa làm giảm rừng tự nhiên là việc lợi dụng xây dựng thuỷ điện để khai thác gỗ. Không chỉ trong diện tích rừng cấp cho thuỷ điện và làm đường giao thông, mà là ngoài các diện tích đó. Số lượng này không hề nhỏ.

4. Các nguy cơ mất an toàn trong xây dựng thủy điện nhỏ ở miền Trung

Khắp Bắc - Trung - Nam, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù có vốn pháp định từ vài tỷ cho đến vài trăm tỷ đều đổ xô đi làm thuỷ điện. Vốn cần ghi bao nhiêu cũng không khó. Nên các công ty tư nhân, công ty cổ phần vừa thành lập đều có thể làm thuỷ điện. Họ nhận được dự án, bất chấp năng lực thực tế, miễn là biết đi đúng đường. Và không ít các dự án đã được bán lại cho các chủ mới.

Không có các chuyên gia giỏi trong ngành thuỷ điện. Không khảo sát địa chất. Không nghiên cứu tác hại môi trường. Nhưng hồ sơ vẫn hoàn chỉnh, kín kẽ.

Còn thiết bị từ đâu? Đắp đập thành hồ. Mua thiết bị và thuê người lắp đặt là thành thuỷ điện. Người bán thiết bị đến lắp đặt xong thì về nước. An toàn hay không thì mặc nơi có thuỷ điện phải gánh chịu. Đây chính là mối nguy về sự không an toàn trong xây dựng thuỷ điện nhỏ.

Một mối nguy không an toàn khác chính là việc xây dựng đường giao thông đến thuỷ điện nhỏ. Các nhà đầu tư chỉ chú trọng đến chi phí. Họ chọn những cung đường ngắn nhất dù phải làm đường dưới sườn núi dốc đứng. Những con đường không đủ rộng. Họ bạt rừng để làm đường. Nguy cơ sạt lở ở các con đường dẫn đến thuỷ điện nhỏ rất cao, đầy ắp nguy hiểm. Các trận lũ lụt và sụt lở đất trong tháng 10/2020 ở miền Trung đã minh chứng điều đó.

5. Các hồ chứa nước của thủy điện nhỏ ở miền Trung không giúp giảm được lũ lớn

Sông Rào Trăng chỉ dài 26 km với lưu vực 141 km2 nhưng lại có đến 4 thuỷ điện A Lin B1 (42 MW), A Lin B2 (20 MW), Rào Trăng 3 (11 MW, lòng hồ 8,8 ha), Rào Trăng 4 (14 MW, lòng hồ 22,281 ha). Như vậy khoảng cách trung bình giữa các thuỷ điện chừng 8 km. Một khoảng cách quá dày đặc.

Thuỷ điện A Lin B1 có hồ chứa nước 24,8 triệu m3, lấy nước từ suối A Lin trong mạng lưới sông Sê Kông - Mekong sang Rào Trăng. Còn 3 thuỷ điện A Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 lấy nước lưu vực sông Rào Trăng.

Để minh chứng các thuỷ điện nhỏ trên sông Rào Trăng không có khả năng làm giảm lũ trong mùa lũ, hãy lấy thí dụ về thuỷ điện Rào Trăng 4 trong đợt lũ vừa qua.

Đợt mưa vừa qua trong suốt một tuần ở khu vực này đo được từ 2200 - 2500 milimet. Nếu lấy mức thấp nhất là 2200 milimet thì lượng nước lưu vực sông Rào Trăng là 141km2 x 2200 milimet = 310,2 triệu m3. Còn tính cho cả huyện A Lưới sẽ là 1 232,7 km2 x 2200 milimet = 2 tỷ 711.940.000 m3.

Lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 là 22,281 ha. Theo quy trình xả lũ, mà Bộ Công thương duyệt cho thuỷ điện Rào Trăng 4 thì mực nước dâng bình thường 99,5 m; mực nước chết: 93,0m. Cụ thể như sau:

"1. Cao trình mực nước lũ của hồ chứa thuỷ điện Rào Trăng 4 trong mùa lũ ở điều kiện bình thường khi không có lũ không được vượt quá cao trình mực nước 99,5 m;

2. Quy định về chế độ vận hành

Căn cứ dự báo của cơ quan dự báo khí tượng thủy văn có thẩm quyền và quan trắc của Công ty Cổ phần Thủy điện Rào Trăng 4 về số liệu mưa, lưu lượng lũ vào hồ và mực nước hồ chứa, phương thức vận hành cửa van đập tràn như sau:

a) Nguyên tắc cơ bản: Duy trì mực nước hồ ở cao trình mực nước dâng bình thường 99,50m bằng chế độ xả nước qua các tổ máy phát điện và chế độ đóng mở cửa van đập tràn.

b) Trong trường hợp bình thường từ thời điểm lũ vào hồ đến khi đạt đỉnh, việc mở các cửa van đập tràn phải tiến hành lần lượt để tổng lưu lượng xả qua các tổ máy phát điện và đập tràn không được lớn hơn lưu lượng tự nhiên vào hồ tại cùng thời điểm.

- Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình đầu mối thủy điện Rào Trăng 4, chủ động đề phòng mọi bất trắc, với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng 500 năm; không để mực nước hồ chứa Rào Trăng 4 vượt mực nước lũ kiểm tra ở cao trình 101,27m" (http://itradetthue.gov.vn/Thong-tin/tid/Bo-Cong-Thuong-phe-duyet-Quy-trinh-van-hanh-ho-chua-thuy-dien-Rao-Trang-4/newsid/BFC2051C-A714-45FE-98F1-A89500859CF9/cid/-1).

Như vậy, trên 101,27m là hoàn toàn xả lũ. Lúc đó mực nước giữ thêm cho phép tối đa chỉ có: 101,27m - 99,5m = 1,77m. Lượng nước chứa thêm 222.810 m2 x 1,77m = 403.737 m3. Một con số vô cùng nhỏ nhoi so với 310,2 triệu m3, chỉ bằng 0,13%. Vậy làm sao dám gọi là "cắt lũ"?

Còn nếu tính ưu ái cho thuỷ điện Rào Trăng 4, rằng trước khi lũ, mực nước ở mức chết là 93,0m, thì mức nước giữ thêm cũng chỉ là 101,27m - 93,0m = 8,27m. Và lượng nước chứa thêm được so với mức chết là 222.810m2 x 8,27m = 1 triệu 842.638 m3. Vẫn là con số vô cùng nhỏ so với 310,2 triệu m3 (0,59%). Thuỷ điện nhỏ không giúp giảm được lũ là bởi thế.

Còn nếu ai đó nói rằng lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 vào mùa lũ lớn hơn 22,281 ha, thì chính họ đã chỉ ra sự sai trái trong cấp phép. Lòng hồ là diện tích đất được cấp. Nó phải được tính toán ở mức nước cao nhất của hồ chứa nước. Đó chính là mức nước hồ ở độ cao ngang với đập.

Thí dụ cụ thể của thuỷ điện Rào Trăng 4 đã chỉ ra rằng thuỷ điện nhỏ không thể giúp gì được cho giảm lũ. Đó là chưa bàn đến ở đây, việc xả lũ làm tăng thêm thiệt hại to lớn cho người dân trong mùa lũ.

6. Hiểu thế nào cho đúng khái niệm "Cắt lũ"

Nếu cứ nghe theo những chuyên gia bảo vệ cho thuỷ điện nhỏ ở miền Trung thì thuỷ điện nhỏ có vai trò "cắt lũ" đến mức vĩ đại. Chẳng hạn như, họ đã đưa ra các con số rằng:

"Tại miền Trung, các hồ thủy điện cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cắt lũ, như hồ Quảng Trị 21%, Hương Điền cắt tới 45% đỉnh lũ, hồ Bình Điền 42,3%, Sông Bung 4 cắt 42,7%, Đăk Mi 4 cắt 74,7%, đặc biệt trận lũ ngày 29/10, hồ Sông Tranh 2 cắt tới hơn 50%"…(http://la34.com.vn/tin-tuc/kinh-te/thuy-dien-nho-va-van-de-lu-lut-chuyen-gia-noi-gi/). Làm sao mà có thể cắt lũ đến mức 50%? 74,7%? Đây chỉ là trò chơi con số. Là cách hiểu khác nhau về 2 từ "cắt lũ". Bởi vì những người đưa ra chỉ số "cắt lũ" này dựa vào tỷ lệ lưu lượng nước đổ về hồ và lưu lượng nước xả qua đập thuỷ điện để ghi công cho thuỷ điện "cắt lũ". Chẳng hạn lưu lượng đổ về đầu hồ là 100 m3/s và lưu lượng xả qua đập thuỷ điện cuối hồ là 80 m3/s. Lúc đó, có lẽ những nhà điều tiết xả lũ cho rằng họ đã cắt được lũ 20m3/s. Và tỷ lệ "cắt lũ" là 20/100 = 20%?

Thực ra hồ chứa nước của thuỷ điện không giữ lại 20% lượng nước lũ trong thí dụ trên. 20 mnước đó chỉ bị lưu giữ chậm lại, và chỉ 0,25 giây sau nó sẽ đi qua cửa xả của đập thuỷ điện. Nghĩa là sau 1,25 giây thì toàn bộ 100 m3 nước đi qua đập thuỷ điện, không giọt nào lưu lại hồ. Nước lũ chỉ bị dồn lại trước đập thuỷ điện và thông qua đập thuỷ điện với độ trễ. Giống như dòng người ở trạm soát vé. Khi lũ tiếp tục tràn về, nước dâng lên đến mức cho phép tối đa thì phải xả lũ đúng bằng lượng nước đổ về hồ, nếu không nước sẽ tràn qua đập và có thể gây vỡ đập. Cách tính "cắt lũ" như trên gây ra hiểu nhầm là hồ thuỷ điện giữ lại được một lượng nước đến 50%, 74,7% toàn bộ lượng nước lũ.

Bởi thế, phải hiểu cho đúng khái niệm "cắt lũ". Như thí dụ của thuỷ điện Rào Trăng 4 nêu ở trên, thì thực tế hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 chỉ giữ thêm được có 1,77m chiều cao mặt hồ nước, tương đương với 403.737 m3. Các "hiệp sỹ" bảo vệ thuỷ điện nhỏ, trớ trêu thay tự mâu thuẫn với chính họ. Họ biện luận về "cắt lũ" giúp dân khi lũ không đủ lớn. Khi lũ lên cao thì đột ngột ồ ạt xả lũ để bảo vệ đập, rồi họ lại thanh minh là không làm cho lũ trầm trọng, vì xả đúng lượng nước đổ về đầu hồ. Chỉ có người dân địa phương nơi vùng bị xả lũ mới biết được việc xả lũ của thuỷ điện đã đẩy họ vào thảm cảnh bi đát như thế nào!

7. Đừng so sánh với châu Âu

Có người vin vào số lượng thuỷ điện nhỏ ở châu Âu để cổ suý cho thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam. Như ngay tại phần đầu đã lưu ý, thuỷ điện là năng lượng quý giá trong trường hợp nó được sử dụng một cách khoa học. Thuỷ điện nhỏ được xây dựng và khai thác ở châu Âu trong một thực tế khác hoàn toàn với Việt Nam, dù quy trình trên giấy có vẻ gần giống nhau. Để nói lên sự khác biệt giữa châu Âu và Việt Nam trong cách làm thuỷ điện nhỏ, thì trước hết là phải nói đến quy trình và sự tuân thủ quy trình. Ở Việt Nam không có sự tuân thủ quy trình như ở châu Âu.

Không ai chống thuỷ điện nhỏ khi nó được khai thác một cách khoa học. Nhưng ở Việt Nam, thuỷ điện nhỏ đang tàn phá rừng, làm tăng thêm sụt lở, làm trầm trọng thêm lũ lụt, làm thay đổi môi sinh. Bởi vì việc xây dựng thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam thoát ra ngoài tầm kiểm soát. Và không có cách nào để kiểm soát được trong cơ chế hiện nay.

Khi không kiểm soát được, thì cách tốt nhất là dừng.

8. Thủy điện đã tới hạn

Theo thống kê của Bộ Công thương, đến cuối năm 2018 cả nước có 818 dự án thuỷ điện đã được phê duyệt với tổng công suất 23.182 MW. Hiện có 385 công trình thuỷ điện đang vận hành với tổng công suất 18.564 MW. 143 dự án đang xây dựng có công suất 1.848 MW. 290 dự án đang nghiên cứu có tổng công suất 2.770 MW. Tổng công suất điện toàn quốc năm 2018 đạt khoảng 48.000 MW. Như vậy thuỷ điện chiếm khoảng 38,675% công suất lắp đặt. Kế hoạch đến năm 2030 của thuỷ điện là 25.400 MW (http://nangluongvietnam.vn/news/vn/dien-luc-viet-nam/bo-cong-thuong-dang-nghien-cuu-dau-tu-290-du-an-thuy-dien.html).

Nhu cầu về điện tăng rất nhanh do đòi hỏi phát triển của đất nước. Tổng công suất điện đã lắp đặt của cả nước năm 2019 đạt 54.880MW. Phải dữ liệu tăng trưởng điện ở mức độ từ 10-12% hàng năm. Nhiệt điện than cần phải hạn chế do mức độ ô nhiễm. Còn thuỷ điện đã đạt mức tới hạn. Nếu tính cả 143 dự án đang triển khai thì tổng công suất của thuỷ điện đạt 20.412 MW. Nếu tiếp tục triển khai hết 290 dự án đang nghiên cứu cũng chỉ cho thêm 2770 MW. Tiếp tục theo kế hoạch đến năm 2030 để đạt 25.400 MW thì cũng chỉ tăng thêm 2.218 MW. Nghĩa là không đủ đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng điện trong 1 năm. Bởi vậy, không nên phát triển các dự án thuỷ điện mới nữa, và dừng hoàn toàn các dự án thuỷ điện nhỏ mà chưa triển khai, nhất là tại khu vực miền Trung.

Thay vào đó là điện mặt trời và điện gió. Tính đến tháng 6/2019, đã có 89 nhà máy điện gió và điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất 5.038 MW, chiếm khoảng 9,18% tổng công suất điện quốc gia. Theo kế hoạch, đến 31/12/2019 sẽ có thêm khoảng 1.000 MW năng lượng tái tạo hoà vào lưới điện quốc gia. Phát triển mạnh điện mặt trời và điện gió là hướng chiến lược chủ đạo dài lâu của Việt Nam.

Vì rừng bị tàn phá, đồng bào miền Trung không chỉ đối mặt với lũ lụt ngày càng hung dữ, mà còn phải sống trong nơm nớp lo âu của sụt lở đất kinh hoàng. Trong số các kẻ thù hiểm ác của rừng, phải kể đến: Lâm tặc, sự di dân, sự bành trướng đô thị, sự phá rừng trồng cây lương thực và cây công nghiệp, sự xâm chiếm của các dự án, và thuỷ điện. Cách tốt nhất giúp cho đồng bào miền Trung bớt lũ và tránh sụt lở đất là bảo vệ rừng, trồng thêm rừng, và thay thế thuỷ điện bằng năng lượng tái tạo.

LTSMột trong những nhiệm vụ được Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2020-2025 xác định là phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó vùng Hoàng Mai - Quỳnh Lưu gắn với vùng Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An được xem là vùng kinh tế trọng điểm mang nhiều kỳ vọng của tỉnh. Theo đó, trong tương lai không xa, Thị xã Hoàng Mai sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ nhờ các nội lực cũng như ngoại lực tác động, trở thành cực tăng trưởng của tỉnh.

Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Tổ phó Tổ Tư vấn kinh tế - xã hội của Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An về những nhận định, đánh giá, góp ý cho định hướng phát triển của Thị xã Hoàng Mai, dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế.

*   *

*

 

PV: Thưa PGS.TS. Trần Đình Thiên, là một người con của quê hương Hoàng Mai, luôn theo sát tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã, ông có đánh giá như thế nào về tình hình phát triển của Hoàng Mai trong những năm gần đây?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Hoàng Mai thật sự khởi sắc, đúng theo nghĩa "đổi đời" kể từ khi tách ra khỏi huyện Quỳnh Lưu để thành lập Thị xã năm 2013. Từ một điểm xuất phát rất thấp - "thuần nông" nghèo và khó ở "địa đầu xứ Nghệ", chỉ sau 7 năm, diện mạo vùng đất này đã thay đổi sâu sắc. Trong 7 năm, nhờ động lực đô thị hóa mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thị xã, đạt bình quân hơn 14%/năm, cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh. Giá trị tăng thêm của Hoàng Mai cũng có sự nhảy vọt, hiện đạt hơn 61 triệu đồng/người, gần gấp rưỡi mức bình quân cả tỉnh. Đây thực sự là một kết quả "ngoạn mục", mang tính "đột phá".

Gắn liền với những thành tích đó là những thay đổi sâu sắc về cơ cấu - hình hài đô thị lộ diện, các cơ sở công nghiệp - du lịch ít nhiều bề thế được xây dựng, khẳng định một tầm và thế phát triển mới. Nhà máy Tôn Hoa Sen, Bánh kẹo Hải Châu, Khách sạn Mường Thanh - Hoàng Mai Luxury, Bệnh viện Đa khoa tư nhân Quang Khởi, v.v. là những mốc đánh dấu sự chuyển mình sang đẳng cấp phát triển cao hơn của Thị xã. Nền nông nghiệp "truyền thống" trình độ thấp, thống trị trước đây bắt đầu có động thái "nhường sân" cho một nền nông nghiệp mới: với Quỳnh Liên dẫn đầu, Hoàng Mai đang bắt nhịp vào quỹ đạo "nông nghiệp sạch - công nghệ cao", vươn ra thị trường ngoại tỉnh với các sản phẩm chất lượng, có khả năng giúp người nông dân thoát nghèo và làm giàu.

Mảnh đất địa đầu xứ Nghệ đang chuyển mình và vươn mình. Những gì đạt được trong 7 năm qua là rất ấn tượng, đáng được ghi nhận và cần được đúc kết để rút ra những bài học tích cực. Đà và thế phát triển của Hoàng Mai, "cực tăng trưởng phía Bắc của Nghệ An", đã được xác lập. Với đà và thế đó, có đủ tự tin để nói với Hoàng Mai, "phía trước là bầu trời".

Tuy nhiên, ở mặt khác của quá trình phát triển, cũng cần nhìn nhận thẳng thắn rằng đó chỉ mới là bước đầu, những thành tích đạt được tuy rất ấn tượng, song vẫn còn khiêm tốn, còn xa và còn gian truân lắm để Hoàng Mai khẳng định chân dung đô thị đúng tầm và xứng tầm. Cần hiểu rằng việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao "đột biến" của Thị xã 7 năm qua một phần quan trọng là do xuất phát điểm thấp. Vẫn chưa lộ diện bóng dáng những nhà đầu tư chiến lược, những con đại bàng đích thực có khả năng tạo đột biến, đưa Hoàng Mai vượt lên đẳng cấp phát triển mới.

Đô thị Hoàng Mai hiện vẫn còn ngổn ngang mặt bằng. Khung khổ quy hoạch và chân dung phát triển chưa định hình rõ. Dân cư Hoàng Mai cơ bản vẫn chưa thoát khỏi "gốc gác" nông dân để thành "thị dân" đúng nghĩa. Lực lượng doanh nghiệp "bản địa" hãy còn rất yếu, v.v. Chưa kể sự thiếu thốn về nguồn lực phát triển, trong khi vẫn dư thừa rào cản và trở ngại thể chế.

Nghĩa là với Hoàng Mai, phía trước vẫn còn đầy khó khăn, thách thức.

PVNhư ông đánh giá thì mặc dù trong 7 năm qua, Hoàng Mai đã có những khởi sắc, "đổi đời" nhưng rõ ràng vẫn chưa đạt được kỳ vọng trở thành một trong những cực tăng trưởng, vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, vậy nguyên nhân do đâu, thưa PGS?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Đâu có dễ và nhanh đạt được một kỳ vọng phát triển lớn lao như vậy! Hoàng Mai cũng "không vội được đâu". Vả lại, Hoàng Mai mới được "chọn" để xây dựng thành "cực tăng trưởng" của Tỉnh chỉ cách đây 7 năm, khi lãnh đạo Tỉnh tạo cơ hội để Hoàng Mai tiến "vượt cấp" lên Thị xã.

Đưa Hoàng Mai lên Thị xã, xây dựng thành cực tăng trưởng của Nghệ An không phải là một mục tiêu "tùy hứng" mà nằm trong ý đồ chiến lược quốc gia - phát triển khu vực "Nam Thanh - Bắc Nghệ" thành địa bàn phát triển trọng điểm, "cực tăng trưởng" của cả vùng Bắc Trung bộ.

Tại địa bàn "Nam Thanh - Bắc Nghệ", cho đến nay, Khu Kinh tế Nghi Sơn (Nam Thanh Hóa) đã khẳng định vai trò quan trọng và vị thế chiến lược của mình bằng hàng loạt dự án đầu tư lớn. Hàng chục tỷ đô la đã được đầu tư vào đây. Khu Kinh tế Nghi Sơn chưa "bung hết sức", song đã tạo bùng nổ phát triển, bắt đầu định hình chân dung phát triển và đóng vai trò là động lực tăng trưởng mạnh của Thanh Hóa.

Còn Hoàng Mai, "đi sau", tuy đã đạt được thành tích phát triển "ấn tượng" như đã nêu, song so với "nửa" Nam Thanh của cụm phát triển Nam Thanh - Bắc Nghệ, hãy còn "tụt hậu" xa. Tôi nói tụt hậu theo đúng nghĩa đen của từ.

Nhận định như vậy không phải để chê bai mà là để nhận diện chính xác một thực trạng đáng suy nghĩ, đáng suy xét nghiêm túc cả về phía Nghệ An lẫn Trung ương.

Nguyên nhân của thực trạng đó có nhiều. Khách quan có, chủ quan có.

Nghi Sơn có những lợi thế hiển nhiên. Cảng tốt, mặt bằng đẹp. Nhưng quan trọng nhất là lãnh đạo và người dân Thanh Hóa quyết tâm cao độ, đã "quyết chiến" bằng sức mạnh tổng hợp. Trung ương nhận thấy điều đó và thêm sự hỗ trợ. Và Nghi Sơn thực sự bùng dậy, tạo bứt phá trước Hoàng Mai khá lâu, nhờ đó, chiếm được "tiên cơ".

Hoàng Mai đi sau, có những lý do "ngoài tầm với". Ví dụ việc Hoàng Mai được giao "chức trách" cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy Xi măng Nghi Sơn. Hoàng Mai lại "gánh" mỏ đá như một trọng trách quốc gia. Mà đó là hai nguồn cung cấp ô nhiễm môi trường cho Hoàng Mai. Tôi cho điều đó giải thích tại sao Nghệ An nỗ lực cao độ để thu hút đầu tư lớn vào Hoàng Mai hàng mấy chục năm mà kết quả cho đến nay vẫn cứ èo uột như chưa bắt đầu.

Có một nguyên nhân mang tính chiến lược: Hoàng Mai chưa định hình được lợi thế chiến lược của mình gắn với tầm nhìn phát triển hiện đại. Thiếu cái này thì chưa biết rõ mình và khó thuyết phục nhà đầu tư, khó thuyết phục các cấp lãnh đạo cao hơn mà định hướng quy hoạch và các cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp.

Tất nhiên, còn phải mổ xẻ kỹ hơn hơn nữa, nhất là các lợi thế "tĩnh" và "động". Tôi là người Hoàng Mai, cảm nhận sâu sắc rằng Hoàng Mai có những tiềm năng lớn và lợi thế đặc sắc lắm. Nhìn ra cho trúng những cái này sẽ có cơ sở để "dựng" chân dung phát triển đúng và đề xuất cơ chế, chính sách phát triển phù hợp.

PV: Vậy theo PGS.TS, Hoàng Mai cần "dựng chân dung phát triển" như thế nào cho đúng và cho trúng để đạt được kỳ vọng?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Đầu tiên phải là xử lý các mỏ đá gây ô nhiễm. Muốn Hoàng Mai trở thành cực tăng trưởng đúng nghĩa thì phải dọn dẹp được những thứ này. Nếu không, sẽ khó mà thu hút được nhà đầu tư lớn tử tế nào vào Hoàng Mai.

Thứ hai phải xác định cho đúng quan hệ chức năng giữa Hoàng Mai và Nghi Sơn. Bắc Nghệ mà lặp lại cách phát triển của Nam Thanh thì Bắc Nghệ tiếp tục "đi sau", còn Nam Thanh cũng bị thiệt hại - do không có sự phối hợp, liên kết để tạo sức cộng hưởng. Tôi nghĩ Hoàng Mai, với những lợi thế và điều kiện phát triển của mình, nên hướng mạnh vào mảng dịch vụ, du lịch. Xây dựng Hoàng Mai thành đô thị biển hiện đại, lấy dịch vụ đẳng cấp cao làm trục chủ đạo, vì thế, cần là định hướng chính, chi phối cách tiếp cận phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là công nghiệp.

Cần quy hoạch và thiết kế một đô thị Hoàng Mai đi sau nhưng vượt trước về các chuẩn mực phát triển hiện đại ngay từ đầu.

Thứ ba, Hoàng Mai cần thiết kế lại hệ thống du lịch - nghỉ dưỡng, gắn với việc đẩy mạnh xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao - sạch và thế mạnh hải sản. Lợi ích phát triển của đa số người dân Hoàng Mai là ở hướng phát triển này.

PV: Vậy để Hoàng Mai trở thành đô thị "đi sau vượt trước về các chuẩn mực hiện đại" như ông đã nói thì vai trò của các cơ quan cấp tỉnh như thế nào, thưa PGS.TS?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Tôi nghĩ đối với Hoàng Mai, cấp Tỉnh đóng vai trò định hình, định hướng, tạo điều kiện và cung cấp sự hỗ trợ phát triển ở cấp độ ưu tiên cao bậc nhất trong toàn bộ chương trình phát triển của Nghệ An trong giai đoạn tới. Nếu bỏ qua cách nói triết học về "vai trò quyết định của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng", trong trường hợp Hoàng Mai, rõ ràng các cơ quan cấp tỉnh đóng vai trò quyết định. Cấp Thị xã chủ yếu là "thừa hành", ít quyền, ít nguồn lực và tầm nhìn phát triển bị hạn chế.

Theo nghĩa đó, mấy cái gọi là đột phá nêu ở trên phải là đột phá từ tỉnh. Đồng thời, theo logic hành động, cần thêm một đột phá nữa thì may ra mới đủ: cải thiện mối quan hệ Tỉnh - Thị xã theo hướng tạo cơ hội và điều kiện cho Thị xã chủ động nhiều hơn, tức là có quyền chủ động mạnh hơn, có thêm nguồn lực, nhờ đó, sẽ sáng tạo hơn và chịu trách nhiệm cao hơn.

Khi đó thì có thể hy vọng Hoàng Mai sẽ bay lên như tất cả chúng ta mong đợi.

Xin cảm ơn PGS.TS về cuộc trò chuyện!

HỒ THỦY (Thực hiện)

(*): Đầu đề do Phóng viên đặt

Trần Thị Bình

Phim tài liệu khoa học là một nguồn tài liệu quý giá, mang tính chân thực, không hư cấu, không dàn dựng, khách quan, khoa học, hiện thực cuộc sống được phản ánh một cách trung thực nhất như nó vốn có. Đặc biệt, những thước phim tài liệu khoa học có tác động và ý nghĩa rất lớn trong giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các trường đại học, cao đẳng nói chung và trường Đại học Kinh tế Nghệ An nói riêng. Sử dụng phim tài liệu khoa học phù hợp trong bài giảng không chỉ cung cấp kiến thức cho sinh viên mà còn góp phần tạo hứng thú, nâng cao hiệu quả bài học, bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng để sinh viên tự nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trước sự phát triển của đất nước.

Tuy nhiên dưới góc nhìn chủ quan, bằng những tìm tòi, trăn trở trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, tác giả đưa ra một số ý tưởng trong việc sử dụng các đoạn phim tài liệu khoa học nhằm làm cho bài giảng cuốn hút hơn ở số nội dung của môn học như sau:

  Thứ nhất, chỉ xem phim tài liệu khoa học là một phương tiện hỗ trợ giúp bài giảng cuốn hút, sinh động hơn, chứ không phải là cung cấp kiến thức tuyệt đối. Để giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam lôi cuốn, khoa học, hiệu quả, giảng viên phải sử dụng nhiều phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của người học trước yêu cầu đổi mới giáo dục đại học hiện nay như: dạy học kiến tạo, dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ thuật động não, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy cùng với các phương tiện dạy học hiện đại khác như: máy chiếu, projecter và đặc biệt đối với môn học này phải tạo điều kiện đưa sinh viên đi tham quan các viện bảo tàng, các căn cứ địa cách mạng tiêu biểu, nhân chứng lịch sử. Giảng viên không nên lạm dụng trình chiếu ở mỗi bài, mỗi giờ lên lớp, làm như vậy dẫn đến nhàm chán, chỉ nên sử dụng trong trường hợp mà ở đó bộ phim tư liệu khoa học được quay trên bối cảnh lịch sử diễn ra sự kiện cách mạng đó.

Thứ hai, giảng viên phải nắm vững nội dung kiến thức bài giảng để lựa chọn những thước phim phù hợp, sát với nội dung, mục tiêu của bài. Đồng thời tránh nhầm lẫn giữa giảng dạy môn lịch sử Việt Nam và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với giảng dạy đường lối, giảng viên chỉ lựa chọn những bộ phim điển hình tương ứng với nội dung phù hợp, tiêu biểu để chứng minh cho chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam ở giai đoạn đó. Tránh sa đà, trình chiếu các sự kiện, diễn biến của các cuộc chiến tranh (tập trung ở 3 chương đầu), mà không làm rõ chủ trương, đường lối của Đảng ta ở mỗi thời điểm lịch sử.

Chẳng hạn, với nội dung: "Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)", cụ thể để giảng mục: "Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám", với nội dung: "Khó khăn chồng chất " [1, tr 78] thì ở buổi học trước giảng viên yêu cầu sinh viên sưu tầm các tư liệu, hình ảnh minh họa thể hiện được nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ quốc gia trống rỗng là những hiểm họa đối với chế độ mới. Đồng thời, hướng dẫn sinh viên vào trang Website: https://www.youtube.com, tìm kiếm "Nạn đói khủng khiếp năm 1945", xem phim tài liệu "Những năm tháng không thể lãng quên" trên kênh VTV1 hay "Sao tháng Tám" - Là những bộ phim phản ánh thành công những ngày sôi sục trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với nạn đói kinh hoàng dẫn đến 2 triệu người chết. Từ đó sinh viên hiểu được cuộc sống lầm than của dân ta, mà không trang viết nào tái hiện chân thực bằng, mỗi thước phim là hình ảnh chân thực nhất về thời điểm lịch sử đương thời, chắc hẳn khi xem phim mỗi sinh viên sẽ động lòng trắc ẩn, biết quý trọng những đồng tiền, tấm áo khi đang sống trong vòng tay của cha mẹ. Từ thực tế này, giảng viên chuyển sang giảng mục: Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, sinh viên sẽ hiểu bài nhanh và nắm vững nguyên lý: mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều bắt nguồn từ chính thực tiễn.

* Ở nội dung 4: "Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 1954 - 1975" [1, tr86], cụ thể mục kết quả: "Trong 9 tháng (4 đến 12/1972) chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, lập nên trận "Điện Biên Phủ trên không" đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ [1, tr 108].  Để cho sinh viên thấy chiến thắng là sự kiện lịch sử trọng đại, giáng một đòn quyết định vào cố gắng cuối cùng của Mỹ, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo ra bước ngoặt lịch sử làm tiền đề để đi đến thắng lợi trọn vẹn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giảng viên có thể sử dụng bộ phim tài liệu "Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc lần 2 năm 1972" đồng thời hướng dẫn sinh viên có thời gian nên xem thêm bộ phim "Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ" (dài tập), bởi nếu chỉ tố cáo tội ác của Mỹ, ca ngợi chiến thắng bằng lời nói, kể chuyện ắt hẳn chưa đủ sức minh chứng sự hào hùng và cả mất mát, thiệt hại về người và của, của quân và dân ta, mà cần phải lồng hình ảnh vào để sinh viên chứng kiến tội ác của Mỹ với những máy bay B52 bay trên bầu trời Hà Nội bắn phá xuống các mục tiêu quân sự, trường học, bệnh viện,… vừa thấy được tinh thần chiến đấu của quân dân miền Bắc, đặc biệt là các cảm tử quân "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" bắn trả máy bay Mỹ.

Đây là một trong những chiến thắng mang tầm vóc lịch sử ở thế kỷ XX, chứng minh hùng hồn chân lý: một nước đất không rộng, người không đông nhưng biết đoàn kết đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội… thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù, dù chúng có các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất.

Thông qua bộ phim giúp sinh viên tự thấu hiểu được rằng: Để có được nền độc lập, hòa bình như hôm nay, thì đã có rất nhiều cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh, thế hệ trẻ cần phải hiểu được ý nghĩa, giá trị của hòa bình trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do. Thông qua bộ phim này, gửi đến sinh viên thông điệp mà không cần phải thuyết giáo nhiều: Phải không ngừng nỗ lực, cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc biệt, đừng bao giờ hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta…, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay (như lời của một bài hát).

Thứ ba, sử dụng phim tài liệu khoa học phải có địa chỉ khai thác tin cậy bởi hiện nay có nhiều mạng xã hội đăng tải tràn lan, thiếu cơ quan quản lý, kiểm duyệt về các nội dung nếu không hướng dẫn sinh viên rất dễ chọn nhầm. Đồng thời không lạm dụng, trình chiếu kéo dài thời gian trong bài giảng, giảng viên hướng dẫn cho sinh viên rõ các bộ phim tài liệu khoa học chính thống được kênh truyền hình VTV1 đặt hàng và công chiếu (trang web VTV1: Phim tài liệu) hoặc Đài Truyền hình Vĩnh Long (trang web: THVL/ Phim tài liệu), đồng thời giảng viên cũng nêu rõ, hiện nay lợi dụng vào sự phát triển công nghệ truyền hình, tự do báo chí, ngôn luận nhiều trang mạng lợi dụng nói xấu Đảng, chế độ, vì vậy sinh viên cần phải có nhận thức, tầm nhìn, bản lĩnh chính trị để loại trừ, không truy cập các trang mạng đó.

Thứ tư, không chỉ sử dụng hình thức trình chiếu trên lớp mà giảng viên hướng dẫn sinh viên xem phim ở nhà, phim có liên quan đến bài học mới, để kiểm tra ý thức tự giác, khả năng nhận thức và tầm mong muốn hiểu biết chủ trương, đường lối của Đảng và kết quả, nguyên nhân đạt được.

Chẳng hạn, khi giảng "Đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng trong thời gian qua", đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong phần này, giảng viên có thể sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau để làm bật quan điểm của Đảng. Tuy nhiên để sử dụng những thước phim tư liệu khoa học, giảng viên trước đó phải yêu cầu sinh viên đọc kỹ và tìm hiểu trước nội dung này nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên. Đồng thời hướng dẫn sinh viên xem trước những bộ phim chính sau:

1. 70 năm ngoại giao Việt Nam (từ 1945 - 2015).

2. Ngoại giao Việt Nam 2015 - Lịch sử và hội nhập (Vietnam Diplomacy 2015: History and Integration).

3. Mục tiêu đối ngoại của Việt Nam trong năm 2017 của Truyền hình Thông Tấn - VNEWS.

Sinh viên xem những bộ phim này, chính là sự xâu chuỗi hệ thống bằng những con số, sự kiện sống động chứng minh cho việc đường lối đối ngoại của Đảng ta đi liền với thành tựu đạt được từ 1945 cho đến nay.

Nhưng để kiểm tra thái độ học tập, lĩnh hội của sinh viên như thế nào, giảng viên đến lớp sẽ sử dụng những câu hỏi có liên quan tiêu biểu trong bộ phim như sau:

Trong bộ phim tài liệu "70 năm ngoại giao Việt Nam", đồng chí Phạm Bình Minh - Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã rút ra phương châm và bài học lớn nào trong đường lối đối ngoại của Đảng? Để gợi ý cho sinh viên, giảng viên chiếu lại đoạn phim đó nhưng tắt tiếng để xem sinh viên nhớ, hiểu được mức độ nào, sau khi sinh viên trả lời xong, giảng viên chiếu lại để sinh viên và cả lớp xem. Đồng thời, nhận xét câu trả lời của sinh viên, công bố điểm để tạo động lực, niềm tin cho sinh viên học tập, nghiên cứu đối với bất kỳ giờ học, môn học nào.

Trên cơ sở đã giới thiệu sinh viên xem những bộ phim trên, đến lớp giảng viên giảm thuyết trình, chủ yếu phát vấn sinh viên và củng cố, nhắc lại những mốc đường lối ngoại giao và kết quả đạt được quan trọng của Đảng ta. Ví dụ như trong phần thành tựu của 30 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại, nói nhiều đến quan hệ ngoại giao Việt Nam với các nước láng giềng, trong đó bàn nhiều đến quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, giảng viên khắc sâu, khẳng định thêm: Đối với các vấn đề biên giới lãnh thổ, Việt Nam cần tiếp tục kiên trì nỗ lực giải quyết thông qua con đường đàm phán ngoại giao, tham gia vào việc xây dựng các cơ chế đàm phán đa phương, cần xác định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và toàn xã hội. Về quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung đột trên biển Đông, hai bên cần có thái độ kiềm chế, tôn trọng lẫn nhau, không làm phức tạp hóa vấn đề, không sử dụng vũ lực, cần giải quyết tranh chấp thông qua biện pháp hiệp thương hữu nghị, không để vấn đề này ảnh hưởng tới quan hệ hai nước, đến tình cảm nhân dân hai nước, gây mất lòng tin đối với nhau. Hai bên cần có sự thông tin đầy đủ và kịp thời cho nhau nhằm xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh. Sau đó giảng viên có thể sử dụng thêm câu hỏi để chốt bài: Trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay? Buộc sinh viên phải trả lời bằng chính suy nghĩ của mình: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn luôn mở rộng tầm hiểu biết, không ngừng phấn đấu, nỗ lực học tập, tranh thủ học ngoại ngữ, tin học; chủ động tự tìm và tạo việc làm sau khi ra trường. Nhận thức rõ ràng về những cơ hội, thách thức, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Trên đây là những suy nghĩ chủ quan của tác giả trong quá trình tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Lý luận Chính trị nói chung và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Tác giả nghĩ, việc sử dụng phim tài liệu khoa học nếu hợp lý sẽ là một phương tiện, công cụ trực quan sinh động, hỗ trợ cho bài giảng hấp dẫn hơn, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển năng lực, tư duy, góp phần kích thích, tạo hứng thú, động lực cho người học. Tuy nhiên sử dụng bộ phim nào vào nội dung gì, thời lượng chiếu bao nhiêu, phụ thuộc vào năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn của từng giảng viên. Vấn đề cốt lõi là làm sao trong quá trình giảng dạy đường lối, cương lĩnh chính trị của Đảng, giảng viên không rơi vào tuyên truyền, sinh viên không "quay lưng" lại với môn học, mà gây hứng thú học tập trong sinh viên để từ đó các em yêu thích môn học. Nếu làm được điều đó chắc chắn rằng các em sẽ hiểu và đặt niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tự hào dân tộc, để từ đó xác định cho mình lý tưởng, trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc, dân tộc và với chính bản thân mình.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,  Hà Nội  - 2019.

2. Tổng kết công tác vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh (Phụ lục tình hình trang bị xe ô tô và tổn thất), Tổng cục Hậu cần, 1984.

3. youtube.com/watch.

4. http://text. 123doc.org.document.

 

Lê Thùy Linh

 

Những yếu tố tác động đến kinh tế thủ công nghiệp Nghệ An thế kỷ XV - XVIII

Thế kỷ XV, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng, biên giới Đại Việt - Chămpa được đẩy lùi tới đèo Cù Mông sau thắng lợi của vua Lê Thánh Tông trước vua Chămpa Bàn La Trà Toàn(1). Nghệ An thuộc Hải Tây đạo, được coi là một trong những vùng đất quan trọng, là miền đất phên giậu phía Nam của Đại Việt(2). Không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, quân sự, vị trí địa lý Nghệ An tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi, buôn bán giữa các vùng, đặc biệt là trong thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, khi mối giao thương liên vùng trở nên thường xuyên và phát đạt ở Đại Việt. Từ đó trực tiếp tác động đến sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp - bộ phận kinh tế tạo ra nguồn cung các thương phẩm cho hoạt động thương nghiệp. 

Đặc điểm địa hình cùng sông ngòi, bờ biển, các cửa cảng và tài nguyên khoáng sản là những thuận lợi căn bản cho các hoạt động thương nghiệp và thủ công nghiệp. Bờ biển Nghệ An dài 82 km, từ Mũi Xước ở Đông Hồi huyện Quỳnh Lưu đến Cửa Hội. 6 cửa lạch ven biển thuộc các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và Cửa Lò là lạch Cờn, lạch Quèn, lạch Thơi, lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội. Ngoài ra, còn có các cửa sông Lam như cửa Sót, cửa Nhưỡng và Vũng Áng thuộc biển Hà Tĩnh(3). Theo đó, các nghề thủ công phục vụ cho đời sống kinh tế biển, gắn bó chặt chẽ với biển hình thành, điển hình là nghề đóng thuyền.

Kinh tế nông nghiệp Nghệ An có nhiều biến động trong các thế kỷ XV - XVIII. Dưới thời Lê, việc khẩn hoang được đẩy mạnh: đội quân do Đinh Lễ, Bùi Bị chỉ huy đã khai hoang được hơn 30 mẫu đất tại nơi đóng quân ở Tùng Sơn, Hương Sơn nhằm tạo thêm nguồn lương thực nuôi quân(4). Theo ghi chép của Le Breton trong An Tĩnh cổ lục, nhiều làng mới được hình thành dọc miền duyên hải giữa Cửa Lò và Cửa Hội. Vị Tổng tri thời Lê Thái Tông (1433 - 1442) là Lê Khôi đã tập hợp tù binh chiến tranh khai khẩn đất hoang lập nên 5 làng mới là Quảng Dụ, Nghĩa Liệt, Vệ Chính, Khánh Sơn, Triều Khẩu(5). Năm 1481, vua Lê Thánh Tông cho lập đồn điền, cả nước có 43 sở đồn điền, ở Nghệ An có sở Anh Đô, Diễn Châu, Hà Hoa(6). Kinh tế nông nghiệp phát triển ổn định trong thế kỷ XV, tuy nhiên, sang thế kỷ XVI, XVII, XVIII, do ảnh hưởng bởi nội chiến Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh, khởi nghĩa nông dân ở thế kỷ XVII - XVIII, nông nghiệp Nghệ An đình đốn nghiêm trọng, dân đói liên miên, nhà nước phải nhiều lần chẩn cấp. Tuy nhiên, đan xen trong những thời gian khó khăn đó, vẫn có những thời điểm Nghệ An được mùa như một số năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XVIII(7). Trong điều kiện thủ công nghiệp chưa hoàn toàn tách khỏi kinh tế nông nghiệp, sự bấp bênh của nông nghiệp khó có thể tạo được nền tảng vững chắc để thúc đẩy kinh tế thủ công nghiệp phát triển ổn định. Theo đó, thủ công nghiệp ở Nghệ An chủ yếu phát triển dựa trên lợi thế tự nhiên.

Bên cạnh đó, những chính sách đối với kinh tế thủ công nghiệp dù thay đổi qua các triều đại nhưng đều có những tác động trực tiếp đối với sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp ở địa phương như chính sách thuế khóa, chính sách lao dịch hàng năm, những quy định ngặt nghèo trong việc chế tạo sản phẩm thủ công nghiệp, quy định trong trao đổi, buôn bán các sản phẩm....

Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống thường nhật và lao động sản xuất, nhữngngành nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An vẫn được duy trì và phát triển ở một mức độ nhất định dựa trên những lợi thế mà thiên nhiên ưu đãi và sự tài hoa, cần cù của những người thợ thủ công của vùng đất này.

Một số nghề thủ công tiêu biểu

Nghề truyền thống ở Nghệ An tương đối đa dạng, thống kê cho biết Nghệ An có khoảng 100 nghề, làng nghề thủ công truyền thống(8). Theo ghi chép của Bùi Dương Lịch, nghề dệt vải có ở Nộn Hồ, Nộn Liễu, Lâm Thịnh, Đông Liệt (huyện Nam Đường, sau là huyện Nam Đàn), Quan Trung, Trung Phường (huyện Đông Thành), Nhân Lý, Quỳnh Đôi, Thượng An, Hoàng Nghĩa (huyện Quỳnh Lưu). Vải lụa chỉ đủ cung cấp cho nhân dân địa phương.

Về bách công có: xã Hoa Lâm, huyện Đông Thành làm đồ sắt; xã Vân Đồn ở huyện Nam Đường (sau là Nam Đàn), xã Lý Trai ở huyện Đông Thành làm lưỡi cày, xã Lưu Sơn, huyện Nam Đường làm đồ gốm; xã Ngô Trường, huyện Chân Phúc (sau đổi là Nghi Lộc) làm đồ tre, xã Dũng Quyết ở huyện Chân Phúc, xã Thái Xá, huyện Đông Thành (nay là Yên Thành) dệt chiếu cói. Các nghề thủ công này "rất thô sơ vụng về" và "những hàng ấy cũng đủ dùng trong dân gian mà người làm nghề cũng chỉ đủ ăn mà thôi"(9).

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập một cách khái quát một số nghề thủ công tiêu biểu là nghề làm muối, nghề đóng thuyền, nghề luyện sắt và nghề rèn, nghề gốm, nghề nung vôi bằng vỏ sò.

Nghề làm muối

Nghề làm muối thuộc nghề thủ công nghiệp khai thác, rất tiêu biểu ở Nghệ An dựa trên lợi thế giáp biển, có bờ biển dài. Không có tài liệu ghi chép về thời gian xuất hiện nghề muối và ai là tổ nghề nhưng hiện nay còn tồn tại một số giả thuyết do các diêm dân cư trú tại các làng ven biển lưu truyền lại. Dân chúng ở Tiên Yên (Quỳnh Bá) kể lại: có một người họ Nguyễn từ Vĩnh Lại (Hải Dương) di cư vào mang theo nghề muối truyền cho dân làng. Bên cạnh đó, lại có chuyện lưu truyền từ thế kỷ XVI: Mai Phúc Trí ở huyện Thuần Lộc, phủ Hà Trung dạy cho dân nghề làm muối. Bản tộc phả của họ Hồ ở Thượng Yên có chép: "Khi đến Thượng Yên, ông Hồ Công Hân cùng dân làng phía trên đắp đê làm ruộng, phía dưới khai thác làm muối"(10).

Nghề làm muối là công việc vất vả, nặng nhọc, lại lệ thuộc vào điều kiện thời tiết diễn ra hàng ngày. Trong quá trình sản xuất, người thợ ở Nghệ An đã từng bước cải tiến kỹ thuật làm muối, chuyển từ việc nấu muối trên lò, năng suất thấp sang việc tạo ra những ô sân phơi muối, tận dụng ánh nắng mặt trời để đạt được năng suất cao hơn. Diêm dân nhiều làng ở Quỳnh Lưu như Quỳnh Yên, Quỳnh Thuận, ở Diễn Châu như Vạn Phần, Lý Trai, An Bài, Kim Lũy… đều dùng vữa hàu láng mặt trên của các ô sân phơi muối(11), vừa tiết kiệm chi phí, vừa đem lại hiệu quả sản xuất muối cao hơn.

Nghề làm muối phân bố chủ yếu ở các làng ven biển ở Nghi Lộc, Quỳnh Lưu và Diễn Châu. Sách An Tĩnh cổ lục chép: thế kỷ XV, tại Cửa Xá(12), có những đầm phá do Lê Lợi ban thưởng cho công thần Nguyễn Hội. Nguyễn Hội cho lập nên làng Thái Xá, nay là Thượng Xá có những nại muối lớn và trở nên giàu có(13). Tuy nhiên, đến những năm 30 của thế kỷ XX, những nại muối này không còn nữa, do đất phù sa bồi lấp dần vào, cho nên nại muối bị cách về phía đông(14).

Muối được sản xuất ra không chỉ cung cấp cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân, mà còn là mặt hàng trao đổi có giá trị cao. Nhà nước Lê - Trịnh xác định việc làm muối là có "lợi ích rất rộng"(15). Vì vậy, nhân dân không được phép tùy tiện buôn bán, đến năm Ất Mùi (1715), Nhà nước mới bãi bỏ lệnh cấm mua bán, cho phép nhân dân được công khai lưu hành, trao đổi(16). Thực tế, nhân dân được tự do buôn bán muối dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua các chính sách thuế độc quyền đối với muối ban hành năm Tân Sửu (1721). Diêm hộ(17) phải có bài của quan Giám đương mới được đến trường muối, phải mua muối công trước mới được mua muối của táo đinh(18) với số lượng đã được quy định. Việc mua, bán muối đều có giấy tờ làm bằng chứng(19). Với cách quản lý như vậy, diêm hộ phải mất một khoản tiền hậu hĩ cho quan Giám đương mới được cấp giấy, lại phải mua muối công với giá cao, điều đó khiến cho giá muối bán ra ngoài thị trường đắt đỏ, "có khi một đấu muối giá đến một tiền", dẫn đến hậu quả là "muối ăn ở dân gian ngày một khó khăn", buộc Nhà nước phải có sự điều chỉnh chính sách thuế muối vào năm Nhâm Tý (1732).

Chính sách thuế của Nhà nước đối với diêm hộ khá ngặt nghèo, buộc diêm dân phải tuân thủ nếu muốn tiếp tục khai thác và buôn bán. Thuế muối ở nội trấn là 1 quan tiền quý trên 100 cân muối, ở ngoại trấn là 3 quan tiền quý cho 100 cân muối. Trong khi đó, 2/10 số muối táo đinh nấu được bị nhà nước thu, sung làm muối công(20). Năm 1746, triều đình Lê - Trịnh sai Phạm Doãn [Kinh] Vĩ làm Giám tri diêm đạo Nghệ An, bắt các diêm hộ phải nộp mỗi mùa 40 hộc muối vào hai kỳ mùa đông và mùa hạ(21). Nhìn chung, chính sách thuế cùng quy định nghiêm ngặt của Nhà nước trong sản xuất và mua bán khiến cho hoạt động sản xuất muối ở Nghệ An bị ảnh hưởng.

Nghề đóng thuyền

Nghệ An có bờ biển dài và nhiều cửa biển, cửa sông, đời sống nhân dân gắn bó với sông, với biển. Cùng với lợi thế là nơi có những cánh rừng nhiều loại gỗ phù hợp với việc đóng các loại thuyền, người dân lao động cần cù, sáng tạo, nghề đóng thuyền xuất hiện từ sớm và trở thành nghề thủ công cổ truyền của người dân nơi đây. Điển hình là huyện Nghi Lộc với những làng nổi tiếng về nghề đóng thuyền như: Trung Kiên, Áng Độ, Lộc Châu, Vạn Lộc...

Nói đến nghề đóng thuyền ở Nghệ An, đầu tiên phải kể đến làng Hoàng Lao có lịch sử hơn 700 năm với những người thợ đóng thuyền tài hoa được nhà nước trọng dụng. Năm Canh Dần (1470), trong cuộc bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông, 1 người thợ đóng thuyền trẻ tuổi ở làng Hoàng Lao đã dâng kế cứu được thuyền ngự bị mắc cạn, tương truyền là trên kênh Sạn, hiện còn dấu vết ở Hạ Can Lộc(22). Vua Lê Thánh Tông ban thưởng, đồng thời mời người thợ về Kinh phụ trách xưởng đóng tàu thuyền của triều đình. Trước nguyện vọng được tiếp tục làm nghề tại quê nhà của người thợ trẻ, nhà vua liền lệnh giao thêm cho chàng trai nhiều tiền bạc để lập một trại đóng thuyền cho triều Lê ngay tại đất Hoàng Lao. Vì thế, nghề đóng thuyền của Hoàng Lao ngày càng phát triển, tiếng tăm lan truyền trong cả nước. Nhờ có nghề, đời sống nhân dân Hoàng Lao cũng được cải thiện như văn bia Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 17 (1698) phản ánh: "Xã Hoàng Lao, huyện Hưng Nguyên từ xưa vốn có nghề đóng thuyền nổi tiếng. Nhờ có nghề cuộc sống của dân sung túc, thịnh vượng, làng xã có đình, có bến đò, giếng nước..."(23). Nhân dân tưởng nhớ công lao Tổ nghề nên lập đền thờ. Đền Hoàng Lao (tên thường gọi là đền Trong) thờ thần Cao Sơn, Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn và Ông tổ nghề đóng thuyền là Quan Hậu họ Nguyễn. Triều Lê từng ban tặng Sắc phong cho Quan Hậu: "Tiền triều minh nghị tướng quân kỵ vệ, Tổng tri, chi hợp hoa tài, hậu Nguyễn Quý công tự Chí Đức, thụy viết Quảng Độ gia tôn hậu thần"(24). Hàng năm, làng đều tổ chức lễ hội linh đình vào ngày 5 tháng Giêng và 10 tháng 7 âm lịch để tưởng nhớ Ông tổ nghề đóng thuyền.

Những người thợ đóng thuyền Hoàng Lao còn đem tài năng của mình tham gia chế tạo những con thuyền cỡ lớn để phục vụ công tác quốc phòng, kinh tế, nhiều lần được triều đình khen thưởng(25). Để ghi nhận công lao của thợ đóng thuyền Hoàng Lao, triều Nguyễn đã cho đổi tên xã Hoàng Lao thành xã Trung Kiên.

Trải qua thời gian, nghề đóng thuyền ở Nghệ An phát triển mạnh mẽ. Trong thế kỷ XVIII, quang cảnh công trường đóng thuyền nhộn nhịp ở Nghệ An được Đốc đồng Nghệ An Trần Danh Lâm mô tả:

Dân làm gỗ vùng mé núi, chặt cây chan chát dội rừng sâu.

Phường đóng thuyền rải rác bãi sông, lắp ráp, vang trên mặt nước.

Thợ mộc lắm tay thông thạo,

Bán buôn nhiều kẻ lành nghề(26).

Để hiểu hơn về nghề đóng thuyền ở Nghệ An, việc tìm hiểu những tập tục, kiêng kị của người thợ trong việc đóng thuyền, việc đi biển là điều cần thiết. Khi cuộc sống con người gắn bó với biển, con người càng ý thức hơn sức mạnh của biển cả. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển, tập tục, tín ngưỡng của người đi biển còn gắn với niềm tin và ước vọng về sự trù phú, bình yên do biển cả đem lại cho cuộc sống con người. Cư dân đi biển thường thờ thần Long vương, thần sông Hà bá, thần Ngư Hải cá voi, Sát hải Đại vương, thần Độc cước và các vị thần bảo mệnh cho người đi biển như Tam tòa Thánh Mẫu, tứ vị Thánh nương thờ ở đền Cờn; đền Cồn thờ cá voi ở Diễn Kim - Diễn Châu, đền Vạn Lộc thờ Nguyễn Sư Hồi ở Cửa Lò…

Trong việc đóng thuyền mới cũng có nhiều nghi lễ quan trọng: chủ thuyền mang lễ đến xin phép và cầu may ở nhà thờ tổ nghề của ông chủ thợ nhận hợp đồng đóng thuyền xin cho công việc đóng thuyền được an toàn, thuận lợi, may mắn, đồng thời cầu mong cho con thuyền sắp đóng sẽ là con thuyền tốt, đem lại cơm áo sung túc cho mọi người. Nghi lễ cúng này diễn ra rất trang trọng. Khi đóng thuyền kiêng kị người lạ vào khu vực thi công, người có đại tang, phụ nữ sảy thai hoặc mới đẻ,… tín hiệu thông thường báo kiêng kị là cây dứa dại treo ngược lên. Người thợ kiêng dùng gỗ bị xà leo (dây cuốn vào thân cây để lại vết hằn trên gỗ), cây gỗ hai lòng (hai lõi trong một cây), kiêng đóng ngược gỗ. Trường hợp gỗ bị xà leo có thể đọc thần chú để hóa giải(27). Sau khi xong thuyền có lễ hoàn công, lễ hạ thủy, trong chuyến ra biển lần đầu, thuyền đều ghé vào tất cả những đền, nghè, miếu dọc đường để dâng cúng hương vàng nhằm trình báo, xin phép các thần cho thuyền mới được ra khơi, cầu chư thần phù hộ cho con thuyền gặp nhiều may mắn (28).

Cùng với nghề làm muối, nghề đóng thuyền được coi là những nghề thủ công nghiệp quan trọng của Nghệ An trong các thế kỷ XV - XVIII.

Nghề luyện sắt và nghề rèn

Nghề luyện sắt và nghề rèn xuất hiện sớm trong lịch sử. Ở vùng Nghệ Tĩnh, các làng rèn đều cho rằng ông Đùng là tổ nghề. Ông Đùng là vị thần khổng lồ tạo nên núi non ở xứ Nghệ. Trong khi nghỉ ngơi ở Ngàn Hống (tức núi Hồng Lĩnh), thần thường lấy trong lòng núi ra những khối sắt và rèn thành nhiều loại dao búa và đồ dùng bằng sắt(29).

Trong thủ công nghiệp luyện kim của Nghệ An, không thể không nói tới nghề rèn, luyện sắt ở làng Nho Lâm, thuộc huyện Diễn Châu. Nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử, gắn bó với đời sống lao động, sản xuất và chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước của nhân dân Nho Lâm. Dấu tích còn lại ngày nay cho chúng ta biết Nho Lâm là nơi có nghề luyện sắt sớm nhất cả nước. Gia phả của dòng họ Cao ở Nho Lâm ghi ông Cao Thủy, tên tự Trừng Tâm là người làm nghề đúc sắt sớm nhất. Hiệu bụt của ông có ghi 4 chữ "Giả luyện phục trương" (nghĩa là Thợ lò đúc rèn). Ước đoán, ông Cao Thủy sống vào khoảng đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459), như vậy, tính đến ngày nay, nghề luyện sắt, nghề rèn tại Nho Lâm đã có gần 600 năm lịch sử tồn tại và phát triển(30).

Nhân dân làng Nho Lâm tỏa đi khắp nơi, lập nên làng rèn Trung Lương (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh), Vân Chàng (thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định ngày nay)… Khoảng thế kỷ XVI-XVII, thợ rèn Nho Lâm còn theo chúa Nguyễn vào Đàng Trong, lập nên phường rèn Tam Thái ở Tam Kì, Quảng Nam.

Sản phẩm của làng rèn Nho Lâm được đem tiêu thụ các vùng phụ cận và các tỉnh xa, vận chuyển chủ yếu bằng đường thủy, đưa hàng hóa tới tận kinh thành Thăng Long và nhiều địa phương phía Bắc(31).

Không chỉ góp phần vào phát triển kinh tế, phục vụ đời sống lao động, sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nghề rèn ở Nho Lâm còn góp phần phục vụ các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc, trong thời gian dừng chân tại thành Nghệ An, 1 sinh đồ người Nghệ An là Đặng Danh Phương cùng một số người dân Nho Lâm xin miễn quân dịch cho Nho Lâm và xin miễn nạp tiền khai mỏ quặng ở xã Quả Trình, dân làng nộp sắt cho Nhà nước thay cho thuế ruộng (đóng bằng thóc lúa) được vua Quang Trung chấp thuận(32).

Nghề gốm làng chợ Bộng

Làng chợ Bộng là tên nôm của làng Viên Sơn, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, chuyên sản xuất gốm đất nung, nổi tiếng với các loại nồi đất mà nhân dân quen gọi là "nồi Nghệ", "nồi Bông", "nồi chợ Bộng". Nghề làm gốm chợ Bộng cùng với phường Nồi chợ Bộng tạo thành làng gốm chợ Bộng(33).

Nghề gốm xuất hiện ở làng chợ Bộng vào thế kỷ XVII, do một vị quan tên là Đặng Húy Khoách người ở Vĩnh Bình, Diễn Châu đem nghề của làng nồi Vồm ở Thanh Hóa về truyền dạy cho dân. Ông cũng là người có công khai hoang lập ấp Bọng, sau gọi là làng Bộng.

Ở xã Nghi Văn, huyện Nghi Lộc, cách làng Bộng khoảng 5 - 7 km có mỏ đất sét nằm trên cánh đồng Hộ Yên hay Xa Hội có trữ lượng lớn, là nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào "Người ta cho rằng có mạch đất sét từ núi đùn ra, đó chính là kho nguyên liệu vô tận"(34). Sớm nhận thấy chất đất sét tại mỏ Xa Hội tương tự như chất đất sét của làng gốm Vồm (Thiệu Hóa, Thanh Hóa), Đặng Huy Khoách đã cho mời thợ làm nồi Đình (còn gọi là nồi Vồm) về dạy nghề, tạo sinh kế cho người dân, làm thay đổi căn bản đời sống của nhân dân trong vùng. Nhớ ơn vị quan có lòng thương dân, nhân dân tôn ông làm Tổ nghề(35).

Vùng núi Văn Sơn, cách làng Viên Sơn không xa có sẵn loại cây rành rành (còn gọi là cây chổi rễ, bổi) là nhiên liệu nung gốm nhiều ưu điểm như lửa cháy đượm, ít than tro, khói nhựa rành rành tạo cho da gốm màu tươi đẹp, độ bền của gốm cao hơn gốm nung bằng các loại vật liệu khác(36). Dân gian truyền tụng "Đất Xa Hội, bổi Văn Sơn", thợ gốm làng chợ Bộng đã khai thác được những lợi thế tự nhiên của địa phương để phát triển nghề.

Quy trình sản xuất tuân theo những quy trình chung của sản xuất gốm, bao gồm: làm đất, tạo hình, đốt lò, thành phẩm. Thợ gốm làng Bộng kỹ lưỡng ngay từ khâu đầu tiên: làm đất. Đất sét có 2 loại: đất xanh và đất trắng. Đất sét trắng cho ra thành phẩm tốt hơn đất sét xanh. Điều đặc biệt là trong quá trình khai thác đất sét, người thợ không được để lẫn cát vào đất vì "đất có lẫn dầu chỉ một hai hạt cát khi nung sản phẩm sẽ bị nổ, không thành thành phẩm được"(37). Bởi sự cẩn trọng đặc biệt của người thợ trong các khâu sản xuất nên nồi gốm Bộng có chất lượng tốt, được nhân dân các nơi ưa chuộng.

Nghề làm nồi Bộng vì thế cũng lan tỏa ra nhiều làng: làng Yên Duệ, xóm Lương Hội (xã Sơn Thành), làng Tràng Sơn (xã Bảo Thành), làng Quảng (xã Yên Vinh), làng Nghi Văn (xã Nghi Lộc), làng Trụ Sơn (xã Đô Lương)…

Việc tiêu thụ sản phẩm của làng gốm chợ Bộng gắn bó chặt chẽ với hoạt động của phường Nồi chợ Bộng. Sự phân công tự nhiên giữa người sản xuất và người buôn bán, một bên chuyên cung cấp hàng hóa cho thị trường tiêu thụ, một bên chuyên tìm đầu ra cho các sản phẩm đã tạo nên mối quan hệ tương hỗ, kích thích nghề gốm làng Bộng phát triển.

Nghề nung vôi bằng vỏ sò

Vôi được nung từ đá là vật liệu phổ biến được sử dụng trong xây dựng. Tuy nhiên, vôi được làm bằng vỏ sò lại là loại vật liệu khá đặc biệt, không mấy phổ biến và không phải ai cũng biết đến. Tận dụng lợi thế tự nhiên ven biển, đa dạng loài nhuyễn thể, có nguồn vỏ sò vô cùng dồi dào, bằng kinh nghiệm và sự sáng tạo tuyệt vời, người dân Nghệ An đã sáng tạo ra loại vôi được nung từ vỏ sò, còn gọi là vôi hàu. Nghề nung vôi bằng vỏ sò ra đời và cũng là một nghề tương đối đặc biệt trong hệ thống các nghề thủ công dân gian ở Việt Nam.

Nghề nung vôi bằng vỏ sò chủ yếu tập trung ở các xã Thanh Đàm, Quý Hòa, Thượng Yên ở huyện Quỳnh Lưu. Việc sản xuất vôi hàu rất tốn công và phức tạp, không trở thành thứ hàng hóa lưu thông. Người dân vì mục đích tự cung tự cấp mà sản xuất ra vôi hàu để sử dụng(38).

Những công trình được xây dựng bằng vôi hàu bền chắc hơn nhiều công trình được xây bởi vôi nung bằng đá. Những công trình ở Nghệ An, đặc biệt là tại Diễn Châu đã chứng minh tác dụng và ưu thế của vôi hàu, giúp cho các công trình tồn tại lâu dài trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Những hộ sản xuất muối thường dùng vôi hàu để láng bề mặt của các ô chạt làm muối, vừa tiết kiệm lại vừa đem lại hiệu quả sản xuất cao.

***

Từ trong lịch sử, vùng đất Nghệ An chủ yếu được biết đến là đất địa linh nhân kiệt. Vấn đề kinh tế Nghệ An nói chung, thủ công nghiệp Nghệ An nói riêng chưa thực sự được các triều đại phong kiến quan tâm. Thế kỷ XV - XVIII, mặc dù mảnh đất Nghệ An có một số điều kiện thuận lợi để phát triển các nghề thủ công nhưng nhìn chung, những hạn chế vẫn là chủ đạo, xuất phát từ cả phía Nhà nước và những khó khăn nội tại của địa phương. Do đó, kinh tế thủ công nghiệp nhìn chung chỉ ở mức độ nhất định, đáp ứng nhu cầu cuộc sống thường nhật của nhân dân mà chưa thể vươn tới trình độ sản xuất chuyên nghiệp, chưa thể tách khỏi kinh tế nông nghiệp và hướng tới sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, có một số nghề thủ công là nghề làm muối, nghề đóng thuyền, nghề luyện sắt và nghề rèn, nghề gốm, nghề nung vôi bằng vỏ sò phát triển hơn so với các ngành nghề khác. Các nghề này chủ yếu dựa trên lợi thế tự nhiên, sự ưu đãi của thiên nhiên mà tạo ra nguồn lợi. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu các nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An một lần nữa khẳng định những giá trị của con người xứ Nghệ: sự tài hoa, sáng tạo, đức tính cần cù, chịu gian khổ trong quá trình lao động sản xuất, sự thích nghi và tính ứng biến linh hoạt trước hoàn cảnh là những đặc tính nổi trội rất đáng trân trọng.

 

Chú thích

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, tr.441-450; Phan Huy Lê (Cb), Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế, Vũ Văn Quân, Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012, tr.186-187.

2, 8, 32.. Tỉnh ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Lịch sử Nghệ An, Tập I (Từ nguyên thủy đến Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.352, 365, 393-394.

3, 7, 28. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Nghệ An toàn chí, Tập VIII, Phong tục, tập quán xứ Nghệ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2013, tr.525, 384, 385, 529.

4. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1982, tr.195.

5, 13, 14. Hippolyte Le Breton, An Tĩnh cổ lục, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Nghệ An, 2005, tr.99, 259, 98, 99.

6, 21. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.1118 - 1119, 590.

9. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2018, tr.256-257.

 10, 11, 22, 24, 26, 30, 31, 38. Ninh Viết Giao, Nghệ An, đất phát nhân tài, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, tr.386, 388, 400, 399, 397, 366-367, 368-369, 364-365.

12. Cửa Xá: sau gọi là Cửa Lò.

15, 19. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991, tr.87.

16. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), Sđd, tr.69; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2007, tr.134-144; Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập II, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr.422.

 17. Diêm hộ: người buôn muối.

 18.Táo đinh: người nấu muối.

20. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Sđd, tr.134-139.

23. Tuyển tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr.189.

25. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập XXXVI, Nxb. Giáo dục, 1976, tr. 338. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, Tập XIII, tr. 369, 351.

27. Tại làng đóng thuyền Trung Kiên, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, các thợ cả khắc phục cây gỗ phạm bằng kinh nghiệm dân gian cổ xưa truyền lại. Người thợ cả vừa đọc 3 câu thần chú vừa bổ rìu vào những tấm ván của cây gỗ bị xà leo: Câu 1: Đệ nhất phát mộc trảm "thiên yêu" (nhát thứ nhất chém trừ yêu tinh trên không trung); Câu 2: Đệ nhị phát mộc trảm "mộc yêu" (nhát thứ hai chém trừ yêu quái trong cây gỗ dùng đóng thuyền); Câu 3: Đệ tam phát mộc trảm "thủy yêu" (nhát thứ ba chém trừ yêu quái trong cây gỗ ngâm ở dưới nước kể từ khe nước nơi chặt cây gỗ đến bến sông đóng thuyền) (Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Nghệ An toàn chí, Tập VIII, Phong tục, tập quán xứ Nghệ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2013, tr.528).

29. Viện Văn hóa Dân gian, Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990, tr.31.

33, 34, 37.Phạm Văn Kính, "Làng gốm chợ Bộng", Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (280), năm 1995, tr.49, 50, 51.

35. Phạm Văn Kính, "Làng gốm chợ Bộng", Tlđd, tr.49-50; Bùi Văn Vượng, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998, tr.168-169, 172.

36. Bùi Văn Vượng, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Sđd, tr.172.

 

Phạm Xuân Cần

 

Tư liệu về chuyến thăm quê của cụ Phan Bội Châu năm 1926

Tháng 7 năm 1925 Cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc). Ngày 23/11/1925 Cụ bị tòa án của Thực dân Pháp ở Hà Nội xử khổ sai chung thân. Nhưng, ngay sau đó Cụ được Toàn quyền Đông Dương Varenne ân xá. Ngày 25/11/1925 Cụ rời Hà Nội về Huế. Trên đường Cụ đã dừng lại ở Vinh để thăm hai người con trai, rồi lại tiếp tục hành trình.

Hơn hai tháng sau, ngày 6/2/1926 cụ Phan Bội Châu lên đường về thăm quê, sau hơn hai mươi năm bôn tẩu đấu tranh. Báo chí đương thời đã phản ánh khá chi tiết chuyến thăm quê của Cụ. Một số bài báo sau đó được tập hợp in thành sách. Chúng tôi đã sưu tầm được hai cuốn như vậy. Đó là cuốn "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước", do Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn xuất bản, năm 1926. Cuốn thứ hai là "Thanh khí nhẽ hằng" do Nhà in Thực Nghiệp ấn quán, Hà Nội xuất bản năm 1926.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ông Phan Bội Châu về thăm quê nhà(1)

Hành trình Phan Bội Châu từ Huế ra Nghệ và từ Nghệ vô Huế

Cụ Phan về thăm nhà tại Nghệ An, cụ bắt đầu lên đường từ ngày 6 Fevrier 1926 (6/2/1926) hồi bốn giờ sớm mai, đi theo cụ có ông nghè Ngô Đức Kế, ông Nguyễn Đình Ngân và một cậu học sanh Huế.

Khi đến Nghệ An là tĩnh quê hương của cụ thì nhơn dân gần tới 2000 người, tiếng reo mừng vang trời động đất.

Bốn giờ sớm mai có giàn xe hơi ra tới Hà Tịnh, đúng 5h rưỡi chiều tới trọ nhà ông Đốc Hà Huy Sằn ở trong thành thì tức thời có giấy quan Đocter Tây bắt ông đi làm thuốc ở một làng xa thành phố chừng 30 kilomet  (nghe dân bịnh - nhân chỉ đau một ngón tay mà thôi).

Các nhà tri thức đến mời cụ và ông Nghè Ngô ra dự tiệc tại khách sạn Hà Tịnh, tiệc mãn lúc 9h tối mà cửa thành đã đóng, làm cho hai cụ phải ngủ trọ một đêm ở khách sạn. Ngày mai 7 Fesvrier cụ vào nhà ông Sằn thì có các nhà tân cựu học tới yết kiến cụ rất đông. Cụ có diễn giải mấy lời về Pháp - Việt đề huề2 và tinh thần ái quốc của dân tộc Việt Nam mình.

Đến ba giờ chiều ông Hoàng Đức Thi3 ủy viên của hội Quảng Tri4 Vịnh đem xe hơi vào rước cụ 6 giờ tối tại Vịnh. Các hội viên hội Quảng Tri rước cụ tới hội quán. Cuộc tiếp rước này có bề long trọng lắm; trước cửa hội có dựng khải hoàn môn bằng bông lá, pháo nổ đì đùng, đèn điện sáng choang, cờ Pháp cờ Nam bay phất phới thật là xem có vẻ oai nghi.

Vào hội quán ông Lê Thước5 đại biểu cho cả anh em có đọc mấy lời chúc mừng và khuyên răn anh em nhứt là bọn "tân tiến cùng hạ lưu" trong khi cụ về xứ sở đừng quá mừng cụ mà làm những điều bạo động thì không nên. Cụ có tỏ tình cảm ơn các anh em có lòng rước một cách quá long trọng như thế này. Tiệc trà xong rồi cụ trở về nhà trọ, 7 giờ rưỡi lại hội quán dự tiệc, các món ăn làm toàn sản vật xứ Nghệ. Khi vào tiệc ông Nguyễn Hiệt Chi6 có mấy lời trình cụ đại khái nói anh em lấy bữa cơm tổ quốc đãi một vị anh hùng ái quốc, lại lấy những đồ ăn thức uống sản vật của xứ Nghệ An mà đãi một vị anh hùng ái quốc đã sản xuất ra ở đất Nghệ An này, sau cụ cũng vui lòng mà hạ cố cho, sau nữa mong cụ đem những món Pháp - Việt đề huề mà phân phát cho quốc dân.

Cụ tỏ ý vui lòng mà dự tiệc, trong khi chén tạc chén thù cụ cố gắng cho anh em nghe về chữ nghĩa cụ. Cụ có nói, nếu chính phủ thật có lòng cho ta uống giọt sữa văn minh, thì ta cũng nên lấy giọt máu nhiệt thành mà đãi lại. Tiệc xong các nữ giáo viên có lời mừng cụ. Về nhà trọ của hội đã sắm sẵn, các học sinh Vịnh đều đến hầu cụ rất đông, cụ có khuyên anh em về nghĩa hiệp quân và tính nhẫn nại.

Ngày 8 Fevrier, cụ vào thăm quan sứ Nghệ7, nghe đâu tiếp tử tế lắm. 8h rưỡi ngày ấy có Phan phu nhơn8 con và dâu vào thăm cụ. Phu nhơn có nói một câu rất khảng khái như sau nầy: "Thưa thầy, vợ chồng xa cách nhau nay rót hai mươi năm lẻ, thầy còn sống mà về đến xứ sở thế là tôi lấy làm trân nguyện. Thầy đã đem thân ra làm việc cho nước, thì sao cho hết nghĩa vụ cho bằng lòng quốc dân, chớ có nên tưởng chi việc vợ con nghèo túng, miễn sao giữ cho tròn danh tiết là hơn. Đó là điều của tôi nguyện vọng bấy lâu nay. Còn việc gia đình đã có tôi lo liệu rồi".

Cụ ra vẻ hòa nhã cảm động mà rằng "Mấy lời bà nói rất là chánh đáng tôi lấy làm cảm ơn", cụ lên xe hơi về thăm quê nhà ở huyện Nam Đàn cách tỉnh thành hơn 20 cây số. Khi xe hơi về tới nhà, các thân hào kẻ tới người lui thăm viếng rất là rộn rực.

Buổi chiều về tỉnh, cụ lại thăm trường học. Cụ có nói với ông Đốc rằng "tôi muốn đặt một phòng riêng để những đồ của học trò làm bằng tay để khuyến khích các học sinh về đường kỹ nghệ; sau đó dù các đồ thể thao dễ học, trò luyện gân cốt cho mạnh mẽ vì sự yếu ớt của thân thế nó làm trở ngại các đường tiến bộ cho dân Việt Nam lắm rồi"

Ngày 9 - ngày 10 Février - tiếp khách phần nhiều học trò cùng bạn đồng chí của cụ ngày xưa. Chiều lại các học sinh Vịnh có đọc một diễn văn chúc mừng cụ, nhưng xem ra có phần kịch liệt lắm, ngày 11 Février cụ dọn vào ở nhà hai cậu con ở trong thành. Chiều cụ lại đi dự tiệc ở nhà người học trò cũ của cụ.

Ngày 12 Février  12  cụ định đi dạo xem thành thị nhưng trời mưa quá.

Ngày 13 Février, chiều cụ lại đi chơi Bến Thủy, thưởng thức các phong cảnh sông Lam giang, xem thử ngọn nước trong cuộc biến canh thay đổi chừng 20 năm dư nó có đầy vơi ra thế nào chăng?

Ngày 14 Février 3 giờ sáng cụ lên xe vô Quán Nghè là chỗ quê của ông Nghè Ngô ở lại đó một ngày một đêm.

Sáng hôm 15 Février 3 giờ sáng vào Đồng Hới, 10 giờ rưỡi ngày ấy tới tỉnh, vào ở nhà ông Đốc Nguyễn Kinh Chi thầy thuốc, các nhà tri thức vào chào cụ nữa; 11 giờ cụ vào dự tiệc ở hội Quảng Tri, tiệc cơm tây, 5 giờ chiều cụ vào thăm Quan Sứ truyện trò rất ân cần; khi cụ từ giã, quan sứ có tặng cho cụ một cành bông. Cụ trả lời rằng: Tôi mong rằng: Chánh phủ sẽ lập ra một cái công viên  cho người Pháp - Nam được hưởng chung những mùi thơm tho ý vị của cái sự Pháp - Việt đề huề mà nó kết nên. 6 giờ tối cụ đi tiệc cơm An Nam tại khách sạn. 7 giờ rưỡi cụ vào hội Quảng Tri có ông Lâm Mậu thay mặt các hội viên đọc một bài diễn văn tán thành và hoàn chỉnh cái chủ nghĩa của cụ. Chuyện trò rất vui vẻ ân cần, 8 giờ tối cụ đi dạo phố, cụ đi giữa, hai bên có hai người cầm hai cây đèn Manchon, ở sau thì các nhà thân hào trí thức, thiên hạ chạy theo, nhứt là con nít và học sanh, lũ lượt kéo theo, như một ngày lễ gì lớn vậy.

10 giờ ngày 16 Février cụ lên xe hơi vào Huế thế là cuộc hành trình của cụ Phan đã hoàn hảo. Trong bài này cũng nên nhắc lại một việc như sau này để cho độc giả xem mà suy xét.

Số là khi cụ Phan từ Huế ra đến Nghệ An khi đến ngang sông Gianh có gặp một người tự xưng là chuyên nghề buôn bán, gặp cụ thời người ấy xem ra vui vẻ nhiệt thành với cụ lắm, khi xe hơi đến bến thì ông ấy lấy ra tờ giấy 20$ xin tặng cho cụ mà nói rằng: 20$ này tôi dâng cụ để sau này cụ có in quyển sách gì mà có ích quốc lợi dân thì cụ nên dùng số tiền mọn nầy để chi phí gọi là cái lòng thảo của một người Việt Nam thương nước Việt Nam.

Cụ vui lòng nhận tiền

Cụ có hứa rằng cụ đợi cụ Phan Chu Trinh rồi cũng vô Nam kỳ nhưng tiếc thay cụ Trinh vừa mới mất tại Sài Gòn ngày 24 Mars (24/3/1926) thì cụ Phan hứa rằng: sang tháng ba An Nam sẽ vô Nam Kỳ.

Đồng bang ta trong Nam sẽ sắp có cuộc tiếp rước cụ rất long trọng.

Cụ Phan Bội Châu thăm trường Quốc học Vinh9

"Đến ngày hôm sau 27 ta cụ Phan đi chào hai quan chủ tỉnh rồi cùng với vài ông thân hào đi dạo chơi thành phố, nhân quan Đốc học bản tỉnh có cho một viên giáo học tới tỏ ý cùng cụ rằng ngài muốn mời cụ tới thăm trường Cao đẳng Tiểu học, nên cụ cũng lấy làm vui lòng mà tới thăm. Lúc cụ tới quan đốc học đã sắp đặt tử tế. Tuy học trò hôm ấy nghỉ tết nhưng cụ trông thấy học đường to lớn, học vụ mở mang, nào sở dục tài, phòng thí nghiệm, nào phòng cách trí, phòng họa địa đồ (vẽ địa đồ bản tỉnh và các bản đồ địa chất cổ tích thổ sản các hạt), nào trường thể thao, vườn thí nghiệm, các loài cây cùng các thứ phân bón vân vân. Cụ rất lấy làm khen ngợi, cho nên khi từ giã ra về cụ Phan cám ơn quan đốc trường đã lấy lòng thành thực việc ích lợi mà khai đạo cho thiếu niên Nam Việt nhất là ở chỗ Nghệ An này là nơi quê quán của Cụ nên cụ lại càng thêm cảm lắm.

Cụ có yêu cầu hai điều: Một là trường thể thao muốn mở thêm cho rộng, để học trò tập luyện cho thêm sức mạnh, hai là lập một phòng bày các đồ thủ công của học trò làm ra để vừa thưởng khuyến học trò, lại vừa để khách tới thăm trường được mục kích cái sự tấn hóa của học trò về đường thủ công. Quan đốc học lấy điều yêu cầu của cụ làm phải và có trả lời mấy câu như sau này: Việc tập thể thao ngài thường lưu ý, chẳng những tập luyện hằng ngày mà thôi, mỗi thứ năm và chủ nhật học trò còn vào trong than đá cầu nữa, hiện nay chỗ tập thể thao vẫn còn chật hẹp, ngài đã nhiều lần xin tiền sửa sang các đám đất trong trường lại mà mở thêm cho rộng, chắc ít lâu nữa sẽ được như nguyện.

Còn việc lập phòng thủ công thì ngài đã nghĩ tới, song chưa làm được là vì phòng học tuy nhiều mà số học trò đông quá choán hết, không còn dư chỗ, cho nên còn đợi bao giờ có thêm phòng sẽ hay; hiện bây giờ thì lớp nào cũng còn cất trữ đồ vật ấy để sau có chỗ thì đem ra bày. Trong lúc đi xem trường thì quan đốc học có dẫn cụ Phan tới xem phòng để tài liệu của Hội "Hoan Châu cổ học", hội này mới lập, hội viên có đủ người Pháp, người Nam, mỗi năm chỉ góp mỗi người 2 đồng để làm tiền in tạp chí của hội đăng những bài khảo cứu của hội về cổ tích phong tục, văn chương mỹ thuật cùng là địa lý địa dư của tỉnh Nghệ xưa nay, có mấy bức ảnh phóng đại của Đền Công (đền thờ vua Thục An Dương Vương gần phủ Diễn Châu), Vạn An cổ thành và đền thờ vua Mai Hắc đế (huyện Nam Đàn), thành Liễu Thăng (Hưng Nguyên), thành Lục Niên (Lê Thái tổ xây tại núi Thiên Nhận, huyện Thanh Chương), và miếu cùng lăng ông Nguyễn Thiếp, tức là một ông ẩn sỹ về đời Tây Sơn, thường gọi Lục Niên phu tử. Cụ Phan xem xong lấy làm vui lòng và khen ngợi. Nhân quan đốc Le Breton là hội trưởng Hoan châu cổ học có lời xin cụ mỗi khi thong thả làm giúp cho một ít bài về thuộc về lịch sử của bản tỉnh. Cụ Phan nhận lời".

Mấy bài điển văn10

Khi ông Phan dự tiệc tại Vịnh và Hà Tĩnh có bài diễn văn chúc tụng ông như sau nầy:

Thưa Phan tiên sanh

Thấy một người anh em đi lâu mới về, chết rồi sống lại, bà con ai chẳng vui mừng! Huống chi người anh em ấy lại thật có quan hệ đến vận mạng của nhà và họ ta. Đọc một truyện anh hùng, xem một tấn diễn kịch anh hùng ai cũng kính mến những người anh hùng quá khứ. Huống chi gặp được một người anh hùng hiện tại đi qua trước con mắt ta.

Nghe nói một nước nào hèn yếu mới xuất hiện một bậc vĩ nhơn thì người lân bang đều tỏ lòng mừng cho hậu vận của nước ấy, huống chi chính ở tổ quốc mình sanh được vĩ nhơn, đã làm vẻ vang cho nòi giống mình. Hơn mấy tháng nay đồng bào đối với tiên sanh và hôm nay anh em chúng tôi hoan nghinh tiên sanh thật vì "ba mỗi cảm tình" đã nói làm cho lòng người tự nhiên liên lạc không phải cưỡng bức.

Quốc dân lấy sự được thấy, được thừa tiếp tiên sanh làm hân hạnh lắm, chúng tôi tưởng tiên sanh lại hân hạnh hơn bội phần. Sao vậy? hai mươi năm đất khách quê người, nay được trông thấy bà con anh em trong nước, được nhìn lại non sông cây cỏ của mình, ấy là một sự vui mừng thường tình. Đi lâu mới về mà anh em không kêu mình là một tên "đi hoang" chết đi sống lại mà anh em không chê mình là một người "tham sanh" lại không cho mình là một người "dư sanh vô bổ".

Tuy rằng cái trí của tiên sanh chưa thỏa nhưng mỗi khi tiên sanh tự xét, ắt cũng bằng lòng rằng cái thân mình cũng đã gánh được một việc to lớn khó nhọc giữa đời. Chẳng những vì những lẽ ấy tiên sinh lại còn một lẽ rất đáng hân hạnh nữa, là nay tiên sanh đến đâu, quốc dân đã biết hoan nghinh tiên sinh, so với năm sáu năm về trước, không ai dám đọc sách, đọc văn của tiên sanh làm ở trước công chúng, ấy đủ biết bây giờ trình độ tiến hóa của quốc dân đã khác trước nhiều mà chánh phủ bảo hộ đối với tư tưởng của quốc dân cũng đã thiệt hành được nhiều. Tiên sanh thấy thế hả chẳng hân hạnh lắm sao?

Có người nói rằng hiện tình trong nước còn có nhiều đảng phái, chủ nghĩa khác nhau chưa phải đã đều một mực khuynh hướng tiên sinh cả đâu. Vả lại có nhiều người muốn giả làm cách sùng bái tiên sanh để mua chút danh "kết thức anh hùng" hoặc chút danh "anh hùng mới biết anh hùng", kẻ khác lại muốn làm điều ấy để chuộc cải tiếng xấu của mình lâu nay tham danh đồ lợi. Tiên sanh chớ nên vội tin lòng người. Họ nói điều ấy vẫn phải vẫn có lẽ, nhưng đây chúng tôi quyết rằng: bất luân đảng phái khác nhau thế nào, ngày này quốc dân hoan nghinh tiên sanh là hoan nghinh một người trung thành ái quốc đã làm vẻ vang cho nòi giống nước nhà. Xem mấy năm trước ở đây cũng có người anh hùng ái quốc như tiên sanh mà họ không liệu thời thế; chuyên chủ bạo động, rõ mặt phản kháng một cách không khôn khéo nên quốc dân không dám hoan nghinh.

Có người lại nói quốc dân hoan nghinh tiên sinh là chủ trông cậy tiên sinh, lời nói ấy nghe cũng có lẽ, nhưng chúng tôi đây thiệt không muốn quốc dân chuyên ỷ lại vào tiên sinh đâu. Nước Việt Nam ta suy yếu là vì một người giàu có cả họ trông nhờ, một người làm quan cả làng trông cậy. Số người ỷ lại thì nhiều mà số người tự lập thì ít, trách nào họ không suy, làng không điêu, mà một nước cũng vậy, một người trong nước không biết tự lập thì nước ấy ắt sẽ không thể sinh tồn với các nước khác được. Tiên sanh hiện đang trông cậy quốc dân lại chỉ ỷ vào tiên sinh! Ôi còn có ích gì. Nếu hẳn quốc dân không ai biết tự lập mà ngày chỉ trông cậy một mình tiên sanh thì tiên sanh ắt phải thở dài mà than rằng: cả nước bây giờ chỉ mỗi mình tiên sanh mà già yếu mất rồi!

Lại có một lời khác nữa, họ nói những sự nghinh tiếp tiên sanh thật là một sự hư văn làm phiền cho tiên sanh mà lại có khi làm trở ngại cho sự hành động của tiên sanh nữa.

Lời nói ấy lại cũng thêm một ý kiến, chúng tôi đây thật không muốn làm mãi những việc "hư văn vô bổ" ấy đâu. Nhưng tiên sanh bây giờ đã sẵn lòng giúp quốc dân và chánh phủ để thiệt hành cải chánh sách "Pháp việt đề huề" thì tất chánh phủ cũng không lấy sự hoan nghinh tiên sanh làm giới ý, vả lại tiên sinh còn cần có tai mắt quốc dân để giúp sự quan sát, nếu tiên sinh cùng quốc dân không được trực tiếp với nhau, thì mắt quan sát chẳng được tin tưởng. Thưa tiên sanh, gần đây nhiều người nô nức hỏi sự hành động của tiên sanh sẽ ra thế nào. Chúng tôi đây ở vào cái địa vị khác và kiến thực hẹp hòi, làm sao mà ức đạt ý kiến tiên sanh cho được, nêu câu hỏi ấy thật khó trả lời. Chúng tôi chỉ biết rằng tiên sanh là một nhà ngôn luận, lại là một nhà hành động, tiên sinh sẽ soạn nhiều sách, sẽ đi diễn thuyết để mở trí khôn cho quốc dân, sẽ điều hòa các đảng phái trong nước khiến cho ai nấy đều xây về chủ nghĩa hoàn thiện rất hiệp thời để khỏi làm nhọc lòng quốc dân và khỏi để sự khó khăn về sau. Thôi chúng tôi không dám nói ức đạc lắm, chúng tôi kính xin dừng trước. Tiên sanh tỏ lòng hân hạnh được thừa tiếp lần nầy là lần đầu và tỏ lòng hoan nghinh cái chủ nghĩa "Pháp Việt đề huề" của tiên sanh.

Kính chúc Việt Nam vạn vạn tuế

Kính chúc Phan tiên sanh trường thọ.

Tờ chúc tụng ông Phan Bội Châu trong buổi ông tới thành phố Vinh

    Thưa cụ

Cụ là một bậc vĩ nhơn ái quốc rất quả quyết, rất kiên nhẫn mà ông xanh kia đã giáng sinh ra giữa đất Nghệ An nầy. Hai chục năm thừa đi ra ngoại quốc lấy bút làm chuông lấy nghiên làm mõ, đánh thức quốc dân dậy trong cơn mê mẩn mấy trăm năm: cái nhiệt huyết, cái khổ tâm không giấy mực nào mà tả cho xiết được.

Từ khi cụ bị bắt đến nay cụ được thả ra, quan khâm sứ đón cụ vào Kinh bây giờ đi du lịch ghé về thăm quê mà quang cố đến hội quán Quảng Tri, chúng tôi lấy lòng hoan hân, cảm bội chẳng khác như một vị thành hoàng thượng đẳng xuất ngoại đã mấy mươi năm nay lại trở về nhập điện vậy.

Xưa nay các bậc hào kiệt anh hùng là những cái cây chống vững cho xã hội, cho nhơn quần, chuông vẫn lành, mõ vẫn tốt, cụ cử đưa chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề của cụ đã để xưởng lên chín mươi năm trước, đánh cho có nhịp nhàng, rung cho chuyển động, cho trên thấu đến tại chánh phủ, dưới vang đến óc quốc dân. Chúng tôi dẫu câm điếc đến đâu cũng phải theo cụ mà bôn tẩu hô hào, đặng dắc 25 triệu đồng bào ta lên con đường tấn hóa.

Ôi! Lam Giang còn nước, Hồng Lĩnh còn cây, kính chúc cụ hãy còn trường thọ.

Hỡi các anh em chị em, nhắn cụ về thăm nhà đi qua chỗ này mà các anh em chị em tới chào mừng cụ đông đủ như thế này, hăm hở như thế này, đã biết ai nấy đối với cụ cũng có lòng thương yêu kính mến. Tuy vậy ta đã yêu cụ mến cụ, thì trước ta phải làm thế nào cho cụ dễ xử về sau. Cụ có cái nghĩa vụ đối với quốc dân nhưng lại có nghĩa vụ đối với chánh phủ nếu để cho nghi ngờ chán nản, thì ta yêu cụ ấy làm trở ngại cho cái sự nghiệp của cụ.

Vậy cho nên nhân có anh em chị em đông đủ ở đây, chúng tôi xin tỏ một lời rằng trong lúc cụ còn lưu chơi ở chỗ nầy là chỗ quê hương đất tổ của cụ, chúng ta chớ nên làm những sự ồn ào, những điều nóng nảy đã không để cho cụ được yên nghỉ lại còn làm cho cụ phải đeo phiền, thì thật là yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau đó. Xin anh em chị em ai nấy nghĩ lại để cho cuộc về thăm nhà lần này là toàn là vui vẻ, sau sẽ còn nhiều lần khác nhau. Thảng hoặc có ai chưa hiểu rõ cái thân ý của tôi nói mà toan làm điều hô hào náo động thì cũng nhờ anh em chị em đây vì cụ vì đất nước này mà nhắn nhủ khuyên răn để cho cụ đi chỗ nào cũng đều có trật tự và êm đềm như hôm nay cả.

Tên các ngài dự tiệc như sau nầy:

Lê Thiện Thuật - tham tá tòa sứ Vinh; Lâm Sô - tham tá canh nông; Võ Hàm Chương - Phán sự tòa sứ Vinh; Võ Công Minh - bào chế sư nhà thương Vinh; Thân Trọng Phước - Thầy thuốc nhà thương Vinh; Nguyễn Đức Tánh - tú tài trợ giáo; Trần Đình Định, Nguyễn Văn Thiêm - y sanh nhà thương Vinh; Trần Đình Hòe, Lê Hoàng Hưng - phán sự và y sanh nhà thương Vinh; Hoàng Ngọc Quyết - trợ giáo; Lê Văn Phụng - Phán sự nhà thơ; Nguyễn Văn Tình - hội viên; Nguyễn Văn Thanh - Thầu khoán; Hồ Sĩ Quế - Phán sự tòa sứ Vinh; Thái Cữu - Trần Phú; Đỗ Kuế Tuyên - giáo học; Nguyễn Đình Xuân, Đào Đình Phong, Đỗ Hữu Cần - thương mại.v.v.

Bài chúc tụng ông Phan trong bữa cơm các thân hào đãi cụ tại nhà hội Quảng Tri ở Vịnh

Thưa cụ

Cụ ngậm đắng nuốt cay, đi ra hải ngoại, đã mấy chục năm trời, uống hết giá, ăn hết sương, cầu cho dân tộc Việt Nam ta hưởng được nhiều phần hạnh phúc? Vẫn biết rằng: tiệc Tàu tiệc Nhựt tiệc Xiêm cho đến tiệc Nga tiệc Đức chẳng thiếu chi mĩ vị trân tu, nhưng lấy lòng chưa chắc mà suy, chắc cụ trông người mà ngẫm đến ta, nước mắt cụ chứa chan không thể nào nuốt được.

Bữa cơm này là bữa cơm tổ quốc mà đồ ăn thức uống toàn dùng vật sản Nghệ An, chúng tôi lấy một bữa cơm tổ quốc đãi một vị anh hùng ái quốc lại lấy những đồ ăn thức uống toàn sản vật Nghệ An mà đãi một vị anh hùng ái quốc đã sản xuất ở đất nước Nghệ An nầy, sao cụ cũng vui lòng hạ cố đến. Chúng tôi lại được hầu một bữa cơm nầy với cụ, ngửi cái mùi rất thanh liêm, rất thuần khiết, ắt chánh đại quang minh của cụ, tưởng không ăn cũng no, không uống cũng phải say vậy.

Chúng tôi bưng chén rượu Nam nầy chúc cụ xin cụ đem những món Pháp Việt đề huề mà cụ dọn ra năm trước mời chánh phủ ban phát cho quốc dân chắc Việt Nam ta sẽ có cái lễ chánh chung riêng cho hăm lăm triệu quốc dân được ăn chơi sung sướng thì chúng tôi lấy làm mãn nguyện lắm".

 

 

 

Chú thích

1. Rút trong sách "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước"

2. Pháp - Việt đề huề: Chủ trương chính trị do thực dân Pháp đưa ra trong Chiến tranh thế giới I. Mục đích chính nhằm kêu gọi sự hợp tác Pháp - Việt để đảm bảo sự ổn định chính trị và huy động sức người sức của của Việt Nam phục vụ chiến tranh đế quốc. Một số cá nhân và tổ chức chính trị thân Pháp tuyên truyền ủng hộ chủ trương này. Thực dân Pháp cử người sang Trung Quốc vận động Phan Bội Châu ủng hộ chủ trương nói trên. Tương kế tựu kế, Phan Bội Châu viết bài "Pháp Việt đề huề chính kiến thư" yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho Việt Nam, thực tâm giúp Việt Nam tiến bộ văn minh. Toàn quyền Anbe Xarô đã bác bỏ những yêu cầu đó. Sau này, được hỏi lý do viết bài báo nói trên, Phan Bội Châu trả lời: Đề huề chi mà đề huề
Oán thù ta hãy còn sâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què" (Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, Hà nội, 2003).

3. Nhà giáo, sau này sáng lập trường Minh Tân, Thuận An ở Vinh

4. Hội Quảng Tri, còn gọi là hội Trí Tri ("Société d' Enseignement mutuel) là một hiệp hội dân lập với chủ trương quảng bá tân học gồm các đề tài khoa học như vệ sinh, phong tục, cùng các kiến thức mới lạ đến trí thức Việt Nam từ năm 1892 đến 1945. Hội Quảng Tri ở Vinh tập hợp hầu hết các trí thức hàng đầu ở Vinh đương thời.

5. Nhà sư phạm nổi tiếng, lúc bấy giờ là Đốc học trường Pháp - Việt Vinh, Hội trưởng Hội Quảng Tri Vinh

6. Tú tài, nhà giáo, soạn giả

7. Tức là Công sứ Pháp ở Vinh

8. Tức là bà Thái Thị Huyên, vợ cụ Phan Bội Châu, quê làng Diên Lãm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

9. Rút trong sách "Thanh khí nhẽ hằng"

10. Rút trong sách "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước"

 

TS. Hồ Bất Khuất

 

Lũ lụt ở miền Trung đã diễn ra từ bao đời nay và ngày càng khó lường vì biến đổi khí hậu. Là một chính phủ kiến tạo, Chính phủ Việt Nam có vai trò phòng chống lũ lụt hiệu quả, khắc phục hậu quả nhanh chóng, bảo đảm điều kiện phát triển bền vững cho miền Trung.

Biết rõ, hiểu đúng về miền Trung

Căn cứ vào địa hình của đất nước, Việt Nam được chia thành 3 miền: Bắc, Trung  và Nam, hay còn được gọi là Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ. Miền Trung bao gồm 19 tỉnh, được chia làm 3 tiểu vùng: Bắc Trung bộ gồm có 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế; Duyên hải Nam Trung bộ gồm có 8 tỉnh và thành phố: Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; Tây Nguyên gồm có 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Sở dĩ Tây Nguyên cũng được xếp vào miền Trung vì là những tỉnh nằm liền kề trong cùng một dải đất, chỉ khác là 5 tỉnh Tây Nguyên không giáp biển.

Hai vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ được gọi chung là Duyên hải miền Trung. Dãy núi Bạch Mã, nơi có đèo Hải Vân được coi là ranh giới giữa Bắc và Nam Trung bộ. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ có khi được gọi tắt là Nam Trung bộ. Điều này khiến một số người hiểu là Nam Trung bộ và Tây Nguyên là hai vùng riêng biệt, dẫn đến một số tài liệu cũng có cách gọi như vậy. Sự nhầm lẫn này không gây hại nhưng nó không rõ ràng, rành mạch nên cũng có lúc gây nên sự khó chịu cho những người ưa sự chính xác.

Các tỉnh miền Trung có diện tích 151.234 km² (chiếm 45,5%  tổng diện tích cả nước) với số dân 26.460.660 người (chiếm 27,4%  tổng dân số cả nước), mật độ dân số bình quân 175 người/km². Đây là vùng đất có tính chiến lược đối với Việt Nam, người dân ở đây cần cù, chịu khó, gan góc, dạn dày. Trong chiến tranh, quân và dân vùng đất này đã có những đóng góp lớn lao vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta. Trong thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế, miền Trung có nhiều lợi thế về vị trí và nguồn nhân lực, bao gồm: 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu công nghiệp, 2 khu chế xuất, 8 sân bay, 2 xa lộ xuyên Việt với hành lang kinh tế Đông - Tây và những dự án hàng chục tỷ USD.

Tuy nhiên, hiện nay các tiềm năng đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế, chưa biến tiềm năng thành của cải vật chất. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là vùng này phát triển chậm và thường xảy ra thiên tai; lũ lụt đã từng gây thiệt hại lớn về người và tài sản, hủy hoại cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất. Do vậy, cần phải có sách lược và chiến lược hợp lý để miền Trung phát triển bền vững.

Miền Trung có lũ lụt thường xuyên, năm 2020 lũ lụt đặc biệt lớn

Miền Trung là dải đất dài, hẹp với dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, biển ở phía Đông; địa hình nghiêng về phía biển. Với địa hình như vậy, vùng đất này mỗi năm thường hứng chịu hàng chục cơn bão và lượng mưa vô cùng lớn. Do đó, vùng đất này có lũ lụt thường xuyên. Dưới sự tác động của biến đổi khí hậu, lũ lụt ở miền Trung càng ngày càng khó dự báo và tàn khốc hơn.

Lũ lụt miền Trung năm 2020 là liên tiếp những cơn bão và những trận mưa lớn, bắt đầu từ đêm ngày 06, rạng sáng ngày 07 tháng 10 năm 2020, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế của Bắc Trung bộ, một phần Nam Trung bộ gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Bắc Tây Nguyên; và chỉ tạm thời kết thúc vào ngày trung tuần tháng 11/2020 khi cơn bão 13 (Bão Vamco) tan, mưa cơ bản chấm dứt.

Lũ lụt miền Trung 2020 được xem là một đợt "lũ lụt lịch sử mới" (có mực nước vượt qua các mốc năm 1979, 1999), được đặt mức báo động IV - cấp bậc thiên tai nguy hiểm, rủi ro rất lớn của Việt Nam; gây tổn thất, thiệt hại nhiều cho toàn khu vực. Chỉ trong đợt mưa từ ngày 5 đến 12 tháng 10, tổng lượng mưa tại các tỉnh Hà Tĩnh, Bình Định trên 500mm, Quảng Trị có nơi 1.800mm, Quảng Nam 1.400mm. Đặc biệt, tại Thừa Thiên Huế có nơi đạt trên 2.000mm. Đây là lượng mưa rất lớn trong một thời gian ngắn, chỉ trong hơn 1 tuần, lượng mưa đã xấp xỉ bằng cả mùa mưa ở đây. Vì thế, ngập lụt gây thiệt hại nặng nề là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, năm nay hiện tượng lở đất diễn ra khốc liệt ở nhiều nơi gây thiệt hại lớn về người, kể cả những người đi cứu hộ, cứu nạn.

Theo một số chuyên gia, lũ lụt, lở đất ở miền Trung gây hậu quả nặng nề, ngoài nguyên nhân khách quan là địa hình dốc, mưa nhiều thì có cả nguyên nhân chủ quan. Đó là việc có quá nhiều nhà máy thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn. Đa số các hồ nhỏ, đập tràn tự do và không có dung tích phòng lũ. Một số hồ lớn như Sông Tranh, Quảng Trị, A Vương, A Lưới... có dung tích phòng lũ chỉ ở khoảng 30 - 150 triệu m3. Các hồ này hiện đều duy trì mức đón lũ để làm chậm, giảm lũ hạ du. Tuy nhiên, vì dung tích khá khiêm tốn nên hiệu quả cắt lũ chưa cao, nhất là khi "lũ chồng lũ".

Chính phủ đã thực hiện tốt vai trò trong phòng chống lũ lụt ở miền Trung

Nhân dân cả nước luôn hướng về miền Trung trong những ngày dải đất này bị chìm trong lũ lụt. Rất nhiều người góp tiền, góp sức để giúp đỡ đồng bào miền Trung. Tuy nhiên, để phòng chống lũ lụt ở miền Trung có hiệu quả, bảo đảm điều kiện để vùng đất này phát triển bền vững, vai trò của Chính phủ là vô cùng quan trọng. Chính phủ có vai trò lớn trong cả bốn hoạt động: 1. Dự báo, cảnh báo về tình hình mưa bão; 2. Chỉ đạo, điều hành vận hành các hồ đúng quy định, phối hợp với chính quyền địa phương để việc xả lũ không gây hại; 3. Cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ; 4. Khắc phục hậu quả, ổn định đời sống của nhân dân, khôi phục sản xuất.

Trên thực tế, Chính phủ hiện nay đang cố gắng thực hiện tốt vai trò của mình; việc dự báo tình hình bão lũ khá chính xác; cảnh báo đúng lúc, đúng mức độ; chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Đặc biệt, công tác cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ được tiến hành khẩn trương, có hiệu quả. Dưới sự điều hành của Chính phủ, bộ đội, công an không sợ gian khổ, hi sinh đã có mặt ở những nơi xung yếu, nguy hiểm nhất, nỗ lực cứu giúp đồng bào. Chính phủ quyết tâm không để người dân chịu đói, chịu khát; không có chỗ trú mưa, trú nắng; bị dịch bệnh đe dọa. Ngay từ cuối tháng 10/2020, Chính phủ đã quyết định tạm cấp 500 tỷ đồng, 1000 tấn gạo hỗ trợ khẩn cấp 5 tỉnh là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - mỗi tỉnh 100 tỷ đồng.

Sau đó, theo Quyết định 1815/QĐ-TTg ngày 15/11/2020, Thủ tướng Chính phủ quyết định tạm cấp 80 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2020 bổ sung kinh phí cho 3 địa phương gồm: Quảng Nam 20 tỷ đồng, Thừa Thiên-Huế 20 tỷ đồng, Quảng Trị 40 tỷ đồng để khắc phục thiên tai trên địa bàn. Tiếp theo, Quyết định 1823/QĐ-TTg ngày 17/11/2020, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 4.303,465 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh: Hà Tĩnh 3.000 tấn gạo, Nghệ An 303.465 tấn gạo và Bình Định 1.000 tấn gạo để hỗ trợ cứu đói cho nhân dân vùng bị thiên tai, mưa lũ.

Tuy nhiên, chúng ta thấy vẫn có những bất cập. Đó là hậu quả do chính phủ khóa trước để lại với việc các thủy điện vừa và nhỏ có quá nhiều trong khu vực. Dù  đang còn tranh cãi, chưa thống nhất về việc thủy điện vừa và nhỏ có làm cho lũ lụt ở miền Trung trầm trọng hơn không, nhưng Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc cũng cho rằng, cần phải hạn chế xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Mặc dù các quan chức Bộ Công thương luôn luôn khẳng định là các hồ thủy điện xả lũ đúng quy trình. Song, vấn đề ở chỗ quy trình đó có hợp lý hay không? Khi lũ lụt ở hạ lưu đang diễn ra, hồ chứa lại xả lũ thì dù có đúng quy định vẫn gây hại.

Mùa mưa lũ năm 2020 ở miền Trung tạm khép lại, Thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh kiểm tra, đánh giá, tổng hợp số liệu thiệt hại; kết quả thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; thực thi chính sách an sinh xã hội và khắc phục hậu quả, gửi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định mức hỗ trợ chính thức từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương theo quy định. Song song với những việc đó, các tỉnh phải chủ động sử dụng ngân sách địa phương và các nguồn tài chính hợp pháp khác để thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; khắc phục hậu quả thiên tai kịp thời, đảm bảo đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng chế độ quy định; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng lợi dụng chính sách, sử dụng sai mục đích, tham nhũng, lãng phí.

Bước đầu, Chính phủ cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm từ việc phòng chống lũ lụt ở miền Trung. Trước hết, phương châm "4 tại chỗ" được đánh giá cao vì đã phát huy tác dụng tốt. Thứ hai, là phải cải thiện năng lực dự báo thiên tai và chủ động ứng phó, nhất là công nghệ dự báo trượt đất, hiện là một khâu yếu của chúng ta. Thứ ba, lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển. Lấy phòng là chính, nên cần thiết phải nâng cao năng lực dự báo. Thứ tư, khi đã qua giai đoạn hỗ trợ khẩn cấp thì chuyển sang giai đoạn hỗ trợ phục hồi, tái thiết như cây giống, con giống; khôi phục cơ sở hạ tầng như trường học, đường sá, cầu cống; làm vệ sinh môi trường, tẩy trùng để phòng dịch bệnh...

Thủ tướng Chính phủ cho biết, các tỉnh miền Trung sẽ được tiếp tục bổ sung thêm nguồn lực. Trong kế hoạch 2021-2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ bố trí nguồn lực để hỗ trợ các tỉnh miền Trung bằng cả nguồn ngân sách Nhà nước và ODA.

Một số dự định của Chính phủ để phòng chống lũ lụt ở miền Trung tốt hơn

Trong những ngày lũ lụt diễn ra, rất nhiều người quan tâm, hiến kế để hạn chế thiệt hại do lũ lụt gây ra trong tương lai. Chính phủ lắng nghe những ý kiến này và quan tâm đến những vấn đề mới mẻ. Đó là nghiên cứu để thành lập cơ quan cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ chuyên nghiệp. Điều này là có lý vì hiện nay đã có một số nước thành lập Bộ tình trạng khẩn cấp như Nga, Trung Quốc.

Chính phủ tiếp tục tổng kết thực tiễn trong quá trình chỉ đạo phòng chống thiên tai và kinh nghiệm quốc tế để tạo ra những mô hình phù hợp nhất đối với nước ta. Thực hiện quy định của Luật Phòng, chống thiên tai, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc gia về ứng phó sự cố và tìm kiếm cứu nạn. Đây là hai cơ quan quan trọng, vừa phối hợp liên ngành, vừa có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp; đồng thời thực hiện chức năng tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo các ngành, các địa phương. Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng (người trực tiếp lăn lộn trên hiện trường trong đợt lũ lụt ở miền Trung vừa qua), cần bổ sung thêm máy bay trực thăng chuyên dùng, tàu cứu hộ, cứu nạn, nhất là các tàu cứu hộ, cứu nạn xa bờ, tàu lớn chịu được sóng to, gió lớn; Thường xuyên tổ chức diễn tập ứng phó với loại hình thiên tai, sự cố khác nhau; Khẩn trương xây dựng Trung tâm điều hành quốc gia về phòng, chống thiên tai.

Dù đã nỗ lực rất lớn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng thừa nhận, trong thời gian vừa qua công tác cứu hộ, cứu nạn vẫn còn những hạn chế về tính chuyên nghiệp; Phương tiện, trang thiết bị phục vụ ứng phó sự cố, thiên tai thiếu, chưa hiện đại, chưa đáp ứng được yêu cầu cụ thể nên chúng ta vẫn chịu thiệt hại khá nặng nề về người và tài sản.

Xuất phát từ tình hình này, đã có kiến nghị Việt Nam nên quan tâm đến việc áp dụng chính sách bảo hiểm với một số loại hình thiên tai khác nhau như, bảo hiểm con người, tài sản, cây trồng, vật nuôi... Hiện tại, thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa có bảo hiểm thiên tai. Nhưng là một Chính phủ kiến tạo, Chính phủ Việt Nam luôn luôn quan tâm tới tất cả các biện pháp có thể làm giảm thiệt hại do lũ lụt gây ra nên ở miền Trung, cũng như ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Lũ lụt ở miền Trung Việt Nam diễn ra hàng năm và ngày càng khó lường nhưng Chính phủ quyết tâm bảo đảm mọi điều kiện để khu vực này phát triển bền vững trong tương lai.

 

Nguyễn Khắc An

Năm 2020, một năm dày đặc những biến cố, dịch bệnh và thiên tai dồn dập, nhưng cũng là lần đầu tiên chúng ta được chứng kiến các hoạt động xã hội từ thiện diễn ra rộng khắp. Thật sự là một cuộc tổng ra quân tự nguyện trên phạm vi chưa từng có. Đôi khi có cảm giác cứ như lòng tốt của con người vừa được kích hoạt trở lại vậy.

Cây bút lỗi lạc, người để lại cho nhân loại tác phẩm văn học kinh điển "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer", ngài Mark Twain từng nói "Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy". Tôi không có ý định bàn về cuộc đời và sự nghiệp của Mark Twain, đó là một câu chuyện đầy hấp dẫn nhưng lại ngoài tầm hiểu biết. Trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ kỳ vọng đề cập về một khía cạnh của lòng tốt thông qua hoạt động thiện nguyện. Thiện nguyện và lòng tốt tất nhiên không cùng một khái niệm nhưng chúng hoàn toàn có thể chung nhau một hành trình. Nếu ngài Mark Twain khả kính coi lòng tốt là thứ ngôn ngữ của cuộc sống thì chúng ta cũng có thể xem từ thiện như là một thứ ngôn ngữ của lòng tốt. Người có lòng tốt không nhất thiết phải là người làm từ thiện, nhưng người làm từ thiện thì nhất thiết phải là người có lòng tốt.

Lòng tốt và sự thiện tâm có thể cư ngụ ngay trong những điều giản dị nhất. Xin được bắt đầu bằng một câu chuyện giản dị như vậy, tháng 4 năm 2020 cụ ông Hoàng Đình Bảy (86 tuổi), trú tại xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mù hai mắt và hưởng chế độ chất độc màu da cam đã tự mình mang 5 triệu đồng để góp thêm "cọng rau hạt muối" cho các cô các chú đang phải ở trong trại cách ly tập trung. Đây là số tiền trợ cấp chế độ chất độc da cam mà cụ đã phải nhịn nhiều thứ để dành dụm. Chưa hết, không phải là trường hợp duy nhất, ngay trong cùng tháng tư ấy, tại Cà Mau có 5 cụ gồm: Nguyễn Thị Phương, Võ Ánh Nguyệt, Nguyễn Thị Mười, Quách Thị Chao, và Phan Thanh Nhàn, cả 5 cụ đều là đối tượng bảo trợ xã hội, không nơi nương tựa, lại bị nhiễm chất độc hóa học từ thời chiến tranh. Các cụ đã lấy toàn bộ số tiền tiết kiệm bấy lâu để hỗ trợ đồng bào vùng đồng bằng sông Cửu Long bị thiệt hại do hạn hán. Vẫn chưa hết, trong một chương trình truyền hình về việc tử tế phát sóng năm 2019, hàng triệu người đã nghiêng lòng chứng kiến cụ bà 83 tuổi, người tự mình đã đạp xe lên ủy ban xã để trả lại "danh hiệu" hộ nghèo. Cái lý của cụ thật giản dị và trong sáng "Nhiều người khác còn nghèo hơn tôi. Tôi xin rút để nhường phần này cho họ". Thật không biết dùng lời lẽ nào để mô tả hết được những tấm lòng thơm thảo ấy.

Trở lại với cuộc chiến chống Covid, một em bé 10 tuổi nhịn ăn sáng để lấy tiền mua khẩu trang tặng bạn. Một doanh nhân đã sáng chế "máy ATM gạo" cho hộ nghèo, một em bé lớp 2 viết tâm thư gửi lên Phó Thủ trướng xin được nhường cơm sẻ áo… Cảm giác như câu khẩu hiệu "Xe chưa qua nhà không tiếc" thủa nào lại vọng về. Suy cho cùng thì cái tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách mà chúng ta đang có không phải tự nhiên mà có. Đó chính là những phẩm chất tuyệt vời của người Việt được cộng dồn, được tích lũy ngàn đời cùng lịch sử, chỉ đến khi gặp biến cố nó mới khai nguồn để trào tuôn.

Rồi tháng 10 năm 2020, bão lũ cuồn cuộn dìm miền Trung trong biển nước. Bão chồng bão, lũ chồng lũ, tai họa chồng tai họa. Nhà trôi, ruộng vườn ngập trắng, những vụ lở đất kinh hoàng… và đau đớn hơn là hàng chục mạng người vĩnh viễn không trở về… Đất nước thêm một lần khổ đau, cả dân tộc lại nhất tề đứng dậy. Hai chữ "miền Trung" trở nên gần gũi, thân thương, thậm chí trong tâm trí của không ít người thì hai chữ ấy còn là mệnh lệnh, một thứ mệnh lệnh đến từ trái tim và lòng trắc ẩn. Hung tin thiệt hại thiên tai Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh… dội về đau thắt lòng mỗi người con đất Việt. Những bản tin nhức nhối tâm can, những lời kêu cứu trong đêm xé gan xé ruột và cả những dòng trạng thái đầm đìa nước mắt. Một lần nữa tình người lại trỗi dậy. Mất mát của một con người thành mất mát cộng đồng, nỗi đau của một vùng quê trở thành nỗi đau dằng dặc suốt chiều dài đất nước. Trước tổn thất nặng nề, sức mạnh riêng có của  dân tộc lịch sử 4 ngàn năm thêm một lần mạnh mẽ. Không ai bảo ai, tất cả đều hòa chung một giai điệu tình người, giai điệu của yêu thương và lòng nhân ái. Những chiếc bánh chưng gói vội, những vỉ thuốc, những thùng mì tôm, những bộ quần áo chứa chan tình người lại theo hành trình thiện nguyện lên đường. Trên quốc lộ 1 A từng đoàn xe nối đuôi nhau "hướng về miền Trung". Chỉ nghĩ đến thôi cũng đã đủ mặn mòi nước mắt. Tại cuộc họp Quốc hội ngày 9 tháng 11 năm 2020 Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã nghẹn ngào bày tỏ "Có đất nước nào trong thiên tai mà người dân thương nhau đến vậy?". Vâng, có đất nước nào như nước Việt mình không? Tấc áo mặc chung, bát cơm sẻ nửa. Nhà nhà làm từ thiện, người người làm từ thiện, làng làng làm từ thiện… Và trong những ngày khốc liệt, đẫm nước mắt nhưng cũng đầy tình yêu thương đó nổi lên một nhân vật nhận được sự tôn vinh và quan tâm đặc biệt của cộng đồng. Cô ca sĩ xinh đẹp vượt qua hiểm nguy, lăn lộn giữa vùng rốn bão ngay giữa đỉnh lũ. Thật tuyệt vời, có thể nói ở góc độ thiện nguyện thông qua cá nhân thì đây là trường hợp thành công nhất. Nhiều người lấy hình cô làm ảnh đại diện, người thì làm thơ tặng cô, sáng tác bài hát tặng cô. Không thể phủ nhận rằng cô ca sĩ xinh đẹp và giàu lòng nhân ái ấy đã thổi vào cộng đồng một làm gió thiện lành, một Thủy Tiên được cộng đồng gọi tên theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ngày 24 tháng 11 vừa qua, cô ca sĩ xinh đẹp và giàu lòng nhân ái, người đứng tâm điểm của từ thiện cá nhân đã công khai "quyết toán" và tổng kết. Trong số hơn 177 tỷ đồng của quỹ ủng hộ miền Trung thì vợ chồng cô ủng hộ 3 tỷ 690 triệu. Cô cũng mạch lạc thông báo: "Xác nhận kèm sao kê ngân hàng tổng số tiền quỹ miền Trung là hơn 177 tỷ đồng, kèm biên bản xác nhận có mộc đỏ của chính quyền các cấp Tỉnh, Huyện, Xã số tiền mặt đã trao tận tay cho 61.532 hộ dân tổng là hơn 178 tỷ đồng cho 7 tỉnh miền Trung". Như vậy là rõ, những nghi ngờ bóng gió cơ bản đã được giải tỏa. Cảm ơn cô, cảm ơn những người đã đồng hành cùng cô.

Tuy nhiên xung quanh câu chuyện Thủy Tiên và cả "chiến dịch thần tốc" của hoạt động từ thiện xã hội vừa qua đã gợi cho chúng ta không chỉ vấn đề về quản lý hoạt động đang ngày càng lan tỏa này. Thứ tư duy "không quản được thì cấm" đã quá lạc hậu. Cấm cản cá nhân đứng ra tổ chức làm từ thiện đã không còn phù hợp với thực tiễn. Việc này không những làm hạn chế khả năng huy động nguồn lực xã hội mà còn làm chậm quá trình tiếp cận nguồn từ thiện của các đối tượng thụ hưởng. Nhưng nếu không cấm thì quản ra sao? Để cho hoạt động từ thiện cá nhân "trăm hoa đua nở" liệu có ổn không? Năm nay có 1 người đứng ra huy động, nhưng năm tới 10 người, trăm người, thậm chí ngàn người cùng sẵn sàng đứng ra huy động quyên góp thì sao? Có bao nhiêu người trong số đó sẽ "quyết toán" mạch lạc như ca sĩ Thủy Tiên? "Thả rông" hoạt động từ thiện nếu không may "vỡ trận" ví dụ như kẻ xấu trà trộn vào huy động rồi ôm tiền bỏ chạy thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Đấy là câu chuyện của quản lý. Quản lý là chủ động dẫn dắt chứ không phải chạy theo sự vụ. Quản lý xã hội sẽ là tệ hại nếu cứ chờ xảy sự mới nhảy vào. Câu ngạn ngữ "mất bò mới lo làm chuồng" rất đáng cho các nhà quản lý lưu giữ trong "ổ cứng" để tự răn dạy mình.

Hoạt động từ thiện theo mô hình "trăm hoa đua nở" có nhiều ưu điểm đó là nhanh, hiệu ứng lan tỏa tốt, khả năng huy động nguồn lực xã hội rất cao và thông qua đó cũng góp phần bồi trúc lòng nhân ái, tình yêu thương đồng bào cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ. Nhưng cũng từ mô hình này mà nảy sinh câu chuyện nơi thừa nơi thiếu, thứ thừa thứ thiếu, cái cần thì không có cái có thì… chưa cần. Làm từ thiện kiểu chạy theo hiệu ứng số đông tất nhiên sẽ dẫn đến lộn xộn và lãng phí. Vừa rồi, dù rất đau lòng bởi đồng bào miền Trung nhưng cũng khó mà nhịn được cười với dòng trạng thái tếu táo "Tóc em xoăn lắm rồi, đừng gửi mì tôm nữa". Có một thời mì tôm như là "từ điển" của cứu trợ. Ở Nghệ An, bà con xúm nhau lại cả làng để nấu bánh chưng. Thấy bánh chưng "hay" mọi nơi lại ào ào củi lửa mà ít biết rằng vẫn đề an toàn thực phẩm không phải lúc nào cũng chiều theo lòng tốt. Cha ông có câu, "Của cho không bằng cách cho". Cho không có nghĩa là bố thí, cho cũng không phải là ban ơn, cho lại càng không liên quan gì đến miệt thị. Cho đi là một cách để nhận lại, cho là sự chia sẻ. Người cho cần biết rằng mình đang cho ai? Nên cho họ vào lúc nào? Cần cho họ bao nhiêu, và cho họ để làm gì? Ai đó vừa khuyên rất chí lý rằng đừng cho họ con cá mà hãy cho họ cái cần câu. Đúng là vậy nhưng khổ nỗi là có phải ai cũng biết câu đâu. Lại nói lá lành đùm lá rách là truyền thống cực kỳ quý giá, đúng rồi, nhưng cách đùm có quan trọng không?

Ngay cả câu chuyện xung quanh từ thiện của ca sĩ Thủy Tiên cũng phải nào đâu suôn sẻ hết. Bên cạnh người vui vì nhận được quà thì cũng có kẻ rơi nước mắt vì bị tổn thương cơ mà. Dân mạng chia phe để công kích nhau. Ai đó vừa chế câu "Thu đi để lại lá vàng/ T đi để lại cả làng cãi nhau". Đây là diễn biến đáng tiếc xuất phát từ hoạt động từ thiện cá nhân mà cơ quan quản lý cần lập tức nghĩ đến khả năng khắc phục. Mục đích của từ thiện là tạo nên lòng yêu thương chứ không phải là sự chia rẽ.

Đằng sau từng câu chuyện đựng đầy yêu thương ấy đã bắt đầu bộc lộ những bất cập đáng kể. Nghị định 64/2008 về quyên góp hỗ trợ đã không còn bao quát hết được những những vấn đề mới nảy sinh. Hình ảnh của một số cá nhân làm thiện nguyện có khi đã bị lợi dụng cho những mục đích ít trong sáng với một thái độ hằn học. Cá biệt còn có cả những người dùng những con số huy động cá nhân để miệt thị các tổ chức hoạt động thiện nguyện chính thống. Hai chữ "lòng tin" được họ dùng để chì chiết ở không ít diễn đàn. Thật ái ngại khi đánh giá quá cao vai trò của một cá nhân mà lại quên đi công sức lớn lao cộng đồng. Hàng ngàn tỷ đồng khắp cả nước vẫn thầm lặng về với miền Trung. Trong kho tàng dân gian Việt Nam không khó để bắt gặp những câu ngạn ngữ như: "Thương người như thể thương thân; Một giọt máu đào hơn ao nước lã; Lá lành đùm lá rách; Một miếng khi đói bằng một gói khi no; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Chia ngọt sẻ bùi; Nhường cơm sẻ áo; Môi hở răng lạnh; Máu chảy ruột mềm; Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa; Thương người như thể thương thân"... Có thể khẳng định chắc chắn rằng: Chính truyền thống nhân ái ngàn đời của dân tộc này sản sinh ta những cá nhân có lòng nhân ái như vừa rồi chứ không phải ngược lại! Tất cả đều yêu những hình ảnh cá nhân đẹp đẽ, đó là quyền của chúng ta, nhưng không ai được phép vì tình yêu ấy mà tổn thương tới đồng bào.

Mọi hoạt động trên lãnh thổ quốc gia này đều phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, đó là điều bất di bất dịch. Không ai được đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Thủ tướng Chính phủ vừa đã có chỉ đạo các cơ quan chuyên môn khẩn trương tham mưu ban hành Nghị định mới thay cho quy định cũ đã không còn phù hợp nữa. Cầu thị và linh hoạt, đây là động thái hợp lý, hợp tình của một "Chính phủ kiến tạo".

Gút lại vấn đề thì cũng là câu chuyện của từ thiện cá nhân và từ thiện tổ chức. Cần chấn chỉnh ngay những hạn chế của tổ chức từ thiện chính thống. Hầu hết các bình luận "ngược chiều" trên mạng đều không mấy thiện cảm với các tổ chức từ thiện bởi nhiều chậm trễ và ít minh bạch. Tại sao từ thiện cá nhân làm được như vậy, vì họ có có khả năng tạo cảm xúc tức thì. Tiền vừa gửi vào tài khoản, mở mạng lập tức thấy ngay người thay mặt mình ngồi trên mũi thuyền phân phát cho bà con. Người đóng góp như cảm nhận được một cách rõ ràng đồng tiền của mình đang được trao cho bà con ngay giữa cái nơi cần nhất, đúng giữa cái lúc thiếu thốn nhất. Mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng rõ ràng cảm xúc là thứ mà các tổ chức từ thiện chính thống cần phải tham khảo cách làm của từ thiện cá nhân. Ngay cả lúc này, khi phép cộng "đầu vào" của các tổ chức từ thiện chính thống vẫn chưa xong thì cô ca sĩ xinh đẹp đã công khai "quyết toán thu chi" hết cả rồi. Đấy là ưu điểm và chính ưu điểm ấy tạo nên thế mạnh của từ thiện cá nhân. Từ thiện cá nhân cần được bảo vệ, hỗ trợ, ghi nhận và tôn vinh. Hỗ trợ từ thiện cá nhân không phải để tranh công mà là để giúp từ thiện cá nhân tốt hơn, hiệu quả hơn, hình ảnh cá nhân càng lan tỏa hơn.

Thiết nghĩ từ thiện của tổ chức cần phải cải tổ, phát huy những ưu điểm và thế mạnh sẵn có đồng thời khắc phục những nhược điểm "chết người" thâm căn cố đế mấy mươi năm nay. Nhanh hơn, minh bạch hơn, cảm xúc hơn, hãy làm cho mọi người quan sát được dòng chảy của đồng tiền. Mô hình từ thiện tổ chức và mô hình từ thiện cá nhân nên song song tồn tại. Không hẳn để cạnh tranh mà là động lực để hỗ trợ nhau, bù đắp cho những khiếm khuyết của nhau. Cần phát hiện, lên án, tiến tới bài trừ bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào trục lợi từ thiện. Mọi ý đồ tranh thủ từ thiện để mưu cầu cá nhân, đánh bóng tên tuổi đều đáng để xã hội khước từ. Từ thiện không phải là mảnh đất cho kẻ xấu ký sinh. Từ thiện nhất thiết phải là nơi hội tụ của lòng nhân ái. Từ thiện, hãy là ngôn ngữ của lòng tốt.

Hồng Bắc

Đặt vấn đề

Thị xã Hoàng Mai là đô thị loại IV trực thuộc tỉnh Nghệ An; được thành lập theo Nghị quyết 47/NQ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ; trên cơ sở tách một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Quỳnh Lưu. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của vùng Nam Thanh-Bắc Nghệ, Hoàng Mai là một trong ba cực tăng trưởng, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội của tỉn. Quyết định 5721/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Hoàng Mai đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030, định hướng phát triển của Hoàng Mai đặt trong mối quan hệ tương hỗ và trao đổi lợi thế của vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ. Trong đó phát triển kinh tế thị xã Hoàng Mai từng bước theo hướng  "đô thị biển". Tận dụng lợi thế biển để Hoàng Mai thu hút các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Đây là cơ sở để Hoàng Mai xây dựng đề án chiến lược trong phát triển kinh tế trong công cuộc đổi mới hiện nay.

2. Tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ, thị xã Hoàng Mai có vị trí địa kinh tế thuận lợi. Đi qua thị xã có hệ thống giao thông đường bộ: Quốc lộ 1A, đường cao tốc Bắc Nam, tuyến đường Nghi Sơn - Cửa Lò, Quốc lộ 48D nối miền Tây Nghệ An và giao thông đường sắt Bắc - Nam; tạo sự kết nối cả nội tỉnh và các vùng trong cả nước. Hơn thế nữa, đô thị này có dòng Mai Giang (thuộc kênh nhà Lê) bao bọc, chảy ra biển theo hai cửa sông, tạo điều kiện để thị xã xây dựng và phát triển cảng cá ở phường Quỳnh Phương và cảng nước sâu Đông Hồi. Kênh nhà Lê chảy qua thị xã nối thông từ kinh đô Hoa Lư đến đèo Ngang được xem tuyến đường thủy đầu tiên ở Việt Nam, được đào từ thời vua Lê Hoàn dùng để vận tải quân lương về phía nam Đại Cồ Việt nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ và phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Hoàng Mai cũng là vùng đất sở hữu đầy đủ các hình thái địa hình tự nhiên, trung du kết hợp đồng bằng ven biển, với hệ thống sông ngòi dày đặc, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp cùng bề dày truyền thống văn hóa đặc sắc… nên có nhiều lợi thế trong phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái biển và du lịch tâm linh. Với 18km bờ biển, trong đó có vùng nước sâu ven bờ Đông Hồi và Lạch Cờn là cửa sông lớn để tàu thuyền ra vào, neo đậu. Nơi đây có tiềm năng lớn về đánh bắt, nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá. Hoàng Mai có nhiều lợi thế trong phát triển công nghiệp và du lịch gắn với biển. Vì vậy kinh tế biển là một trong những mục tiêu mà thị xã Hoàng Mai hướng đến trong tương lai gần.

Những năm gần đây, nhờ có các giải pháp hợp lý nên Hoàng Mai đã từng bước vươn lên trở thành một trong những trọng điểm về phát triển nghề cá vùng Bắc Trung bộ.

Về khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ, hải sản, thực hiện chính sách khuyến khích của Nhà nước, năng lực khai thác đánh bắt của bà con ngư dân ngày càng tăng lên đáng kể. Đội tàu khai thác hải sản phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Tính đến cuối năm 2019, toàn thị xã có 956 tàu khai thác hải sản với tổng công suất là 224.800 CV (công suất bình quân đạt 235CV/tàu). Trong đó: 456 chiếc có công suất trên 90CV, tăng 92 chiếc so với năm 2013; 201 chiếc công suất từ 20CV-90CV, tăng 21 chiếc so với năm 2013; và 299 chiếc công suất dưới 20CV, giảm 123 so với năm 2013. Sản lượng khai thác năm 2019 đạt 47.786 tấn, tăng 66,61% so với năm 2013, đạt 119,47% chỉ tiêu năm 2020.

Bên cạnh đó, năng lực chế biến và kho bãi của người dân thị xã Hoàng Mai ngày càng nâng cao, không chỉ thu mua và chế biến hải sản tại địa phương mà còn có thể đảm bảo thu mua từ các tỉnh khác để chế biến. Thị xã đã xây dựng được mô hình chế biến thủy hải sản theo chuỗi khép kín ở xã Quỳnh Lập; mô hình chuỗi liên kết sản xuất gắn tiêu thụ sản phẩm chất lượng như: Cá thu cắt khúc, Mực 1 nắng ở phường Quỳnh Phương, phường Quỳnh Dị; Xây dựng nhãn hiệu chứng nhận: Hải sản Hoàng Mai, Nước mắm Quỳnh Dị (thay thế nhãn hiệu nước mắm Phú Lợi). Đến nay, có 01 sản phẩm cá trích phi lê của công ty CP Biển Quỳnh được UBND tỉnh công nhận đạt 4 sao theo tiêu chuẩn OCOP. Thành lập Hợp tác xã Khai thác dịch vụ chế biến hải sản làng nghề Phú Lợi, phường Quỳnh Dị. Thu hút đầu tư dự án Nhà máy chế biến nông sản, thủy sản Nghi Sơn Foods Group tại xã Quỳnh Vinh với tổng vốn đầu tư hơn 86 tỷ đồng...

Thị xã đã đầu tư 15 tỷ đồng xây dựng hạ tầng 3 vùng nuôi tôm an toàn sinh học theo tiêu chuẩn Vietgap tại các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Dị, Quỳnh Lộc; tích cực chuyển giao ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất thành công tảo xoắn, giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng chất lượng chất lượng cao... đáp ứng nhu cầu của thị trường khu vực.

Về cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, thị xã đã đầu tư xây dựng cảng cá Quỳnh Phương, đầu tư mở rộng khu neo đậu tránh trú bão Lạch Cờn với tổng kinh phí 153,3 tỷ đồng. Hiện trên địa bàn có 12 xưởng đóng mới, sửa chữa tàu cá đáp ứng yêu cầu phát triển đóng mới, cải hoán, sửa chữa tàu cá cho ngư dân trên địa bàn. Trong 06 năm, đã đóng mới 85 tàu cá công suất trên 400CV với tổng kinh phí trên 820 tỷ đồng; sửa chữa, cải hoán hàng trăm tàu các loại. Hệ thống các cơ sở cơ khí sửa chữa máy tàu, sản xuất đá lạnh, cung cấp xăng dầu, ngư lưới cụ, thiết bị an toàn hàng hải, hệ thống kho bảo quản đông lạnh... cơ bản đáp ứng nhu cầu của ngư dân.

Hoàng Mai còn là địa phương có nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh (trong đó có 6 di tích đã được xếp hạng quốc gia, 7 di tích  cấp tỉnh) có khả năng phát triển thành các sản phẩm du lịch hấp dẫn. Có thể kể đến: Đền Cờn (phường Quỳnh Phương-được xem là nơi linh thiêng bậc nhất của xứ Nghệ); Đền Vưu (xã Quỳnh Vinh) thờ Uy minh Vương Lý Nhật Quang; Đền Xuân Úc (xã Quỳnh Liên) thờ tướng Đặng Tế;…

Cùng với di tích lịch sử văn hóa, vùng ven biển Hoàng Mai có nhiều lễ hội dân gian, truyền thống. Các lễ hội còn giữ được những nét văn hóa riêng từng vùng miền, tái hiện những phong tục tập quán gắn với cuộc sống của người dân vùng biển, có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch như: lễ hội đền Cờn, đền Hạ, đền Phùng Hưng, đền Xuân Hòa,… Trong đó nổi bật hơn cả là lễ hội đền Cờn, là lễ hội có quy mô lớn nhất, cổ xưa nhất, giàu bản sắc nhất và có thời gian tổ chức dài nhất so với các lễ hội khác của Nghệ An. Đến với lễ hội đền Cờn vào dịp đầu Xuân, du khách có thể thưởng ngoạn di tích, tham gia nhiều hoạt động văn hóa dân gian cổ truyền được phục dựng lại với các lễ tế: tế trầu, tế trâu, tế bánh, tế nữ quan,…

Có thể nói rằng Hoàng Mai đã hội đủ các yếu tố để phát triển du lịch tâm linh, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch biển, du lịch làng nghề... Hữu xạ tự nhiên hương, hàng năm, có hàng vạn du khách đã tìm về thị xã để tham quan, khám phá và nghỉ dưỡng.

Ý thức rõ những tiềm năng, lợi thế của mình, những năm qua, thị xã Hoàng Mai đã không những đưa ra các giải pháp để biến các giá trị tiềm tàng này trở thành những hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực. Theo đó, thị xã đã không ngừng triển khai, hoàn thiện hạ tầng cơ sở, hạ tầng du lịch một cách đồng bộ; thúc đẩy các loại hình dịch vụ, thương mại, vận tải, ăn uống, nhà nghỉ, khách sạn, y tế, bưu chính viễn thông, ngân hàng... của thị xã phát triển, đáp ứng yêu cầu của du khách.

Tính đến nay trên địa bàn thị xã đã có 20 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó 1 khách sạn 3 sao và 1 tổ hợp khách sạn 4 sao; Lượng khách đến thị xã tăng nhanh, năm 2019 ước đạt trên 5,8 vạn lượt khách, doanh thu đạt 601,350 tỷ đồng.

Khai thác tốt tiềm năng sẵn có, thời gian qua, Hoàng Mai cũng không ngừng tìm tòi, hướng tầm nhìn phát triển các sản phẩm du lịch mới, mang tính đặc thù như du lịch sinh thái, dịch vụ thể thao trên biển (lặn biển, câu cá, câu mực trên biển)... Thị xã cũng đã và đang kết hợp du lịch biển, du lịch sinh thái với các hoạt động văn hóa tâm linh để xây dựng thành những tour du lịch đa sắc màu, kết nối các "đặc sản văn hóa" có riêng của thị xã.

3. Khó khăn trong phát triển kinh tế biển Hoàng Mai hiện nay

Bên cạnh lợi thế, Hoàng Mai cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Khó khăn lớn nhất là thời tiết không thuận lợi. Hàng năm ngư dân chỉ ra khơi bám biển có 6 tháng. Sáu tháng còn lại mưa bão, lũ lụt, cướp đi hàng ngàn tỷ đồng tiền đầu tư và cả tính mạng con người.

Biển Hoàng Mai giàu tiềm năng nhưng môi trường không thuận lợi do nằm trong vùng Vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang có sự tranh chấp về chủ quyền. Các thế lực nước ngoài thường xuyên ngăn cản, quấy phá hoạt động đánh bắt của ngư dân Việt Nam.

Phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại khai thác bờ biển và thềm lục địa còn nhiều hạn chế. Số tàu dưới 20CV tham gia khai thác hải sản gần bờ giảm nhưng còn chiếm tỷ lệ cao; vẫn còn tình trạng ngư dân vi phạm các quy định về chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); Cơ sở hạ tầng kỹ thuật vùng biển và ven biển như: Cầu cảng, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão, hệ thống giao thông chưa kết nối, hiệu quả sử dụng chưa cao. Dịch vụ hậu cần ngoài khơi và ven bờ chưa phát triển, thiếu đồng bộ.

Các cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm còn nhiều bất cập. Nhiều vùng nuôi chưa có kênh cấp, tiêu nước riêng biệt, chưa có khu xử lý nước thải tập trung, môi trường vùng nuôi tôm bị ô nhiễm; dịch bệnh trên tôm vẫn còn diễn biến phức tạp nhưng chưa có biện pháp phòng trừ hiệu quả.

Chưa có khu dịch vụ, chế biến thủy sản tập trung. Công nghệ chế biến thủy hải sản còn lạc hậu, thủ công; sản phẩm chủ yếu là sơ chế thô nên chất lượng, giá trị thấp phần lớn tiêu thụ ở thị trường nội địa, một số xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc, Lào nhưng thị trường không ổn định.

 Lực lượng lao động khai thác trên biển thiếu; trình độ, kinh nghiệm khai thác của một bộ phận thuyền viên còn hạn chế. Một số làng chài thiếu lao động đi biển vì thu nhập của lao động trên các tàu thuyền còn thấp, bấp bênh.

Có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan nhưng chủ quan là cơ bản. Hoàng Mai chưa có quy hoạch dài hạn để phát triển kinh tế biển. Vẫn tư duy theo lối mòn, nên chưa có cơ chế chính sách đột phá. Hoàng Mai đang lệ thuộc vào sự hỗ trợ của tỉnh Nghệ An. Vì vậy chưa mời gọi được các nhà đầu tư lớn làm ăn trên địa bàn. Ngân sách đầu tư của Nhà nước và doanh nghiệp, người dân chưa đủ mạnh. Đầu tư dàn trải, manh mún, tư duy ngắn hạn. Hoàng Mai đã từng vỡ mộng về một khu kinh tế tầm cỡ khu vực không hình thành. Người dân và doanh nghiệp thiếu niềm tin, thậm chí hoang mang và do dự. Đầu tư phát triển kinh tế biển chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Đó là những vấn đề môi trường, an ninh quốc phòng, việc làm, thu nhập cho người dân... Không gian kinh tế của Hoàng Mai rất chật hẹp. Thị xã nằm trên đường quốc lộ. Dân cư đông. Sau lưng là núi, phía trước là biển. Thị xã mới được quy hoạch mà đất đai đắt đỏ. Để tiếp cận nguồn lực này không dễ dàng. Đó là chưa kể đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho kinh tế biển. Nếu xác định công nghiệp, dịch vụ và du lịch là trụ cột thì Hoàng Mai còn quá nhiều thách thức.

4. Đâu là giải pháp mang tính "đột phá" để Hoàng Mai  trở thành đô thị biển

Mục tiêu phát triển: Trong giai đoạn từ 2020 - 2025, Hoàng Mai được tỉnh định hướng trở thành một đô thị biển gắn với du lịch, dịch vụ, thương mại, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng... kết hợp giữ vững quốc phòng - an ninh trên biển và chủ quyền biển đảo gắn với bảo vệ môi trường biển. Trong bối cảnh hội nhập nên chăng Hoàng Mai hãy chọn cho mình một hướng đi riêng. Hoàng Mai nên từ bỏ tư duy phát triển một nền kinh tế toàn diện. Đây là bài toán khó nhưng không thể không làm. Nếu coi thế mạnh của Hoàng Mai là biển, thì phải dồn lực đầu tư cho kinh tế biển. Thị xã Hoàng Mai trong tương lai gần sẽ trở thành đô thị biển. Về mặt khoa học cần xác định các đặc trưng của đô thị biển. Ở nước ta có nhiều đô thị biển như Tp. Hạ Long, Tp. Đà Nẵng. Vậy Hoàng Mai có thể trở thành Đà Nẵng hay Hội An trong tương lại không?

Về quy hoạch vùng và tiểu vùng kinh tế, trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển KT-XH của thị xã,... tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế biển và quy hoạch ngành thủy sản phù hợp với tình hình thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thị xã. Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế biển và ven biển, trong đó ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế thị xã có thế mạnh, cụ thể:

Trước mắt cần xây dựng cảng Đông Hồi thành cảng nước sâu, cung cấp dịch vụ cho tàu bè nước ngoài. Cảng Đông Hồi là điểm nhấn vừa phát triển công nghiệp, dịch vụ và du lịch. Khôi phục các làng chài ven biển nhằm thu hút du khách.

Thu hút các dự án đầu tư xây dựng cảng cá Quỳnh Lập, nạo vét luồng lạch cửa Lạch Cờn, xây dựng các khu dịch vụ hậu cần nghề cá tập trung; đẩy nhanh tiến độ thi công khu tránh trú bão Lạch Cờn; Tăng cường công tác quản lý tàu cá; thực hiện nghiêm các quy định chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); gắn khai thác với phát triển du lịch biển, bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn lợi thủy sản và bảo vệ an ninh quốc gia trên biển; Thành lập các HTX dịch vụ, khai thác hải sản liên kết sản xuất theo chuổi khai thác - chế biến - tiêu thụ sản phẩm cho bà con ngư dân; Khuyến khích đầu tư nâng công suất và hiện đại hóa đội tàu khai thác hải sản xa bờ, giảm dần số lượng tàu thuyền có công suất nhỏ khai thác gần bờ; tiếp tục đẩy mạnh công tác chuyển đổi nghề khai thác, tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị xuất khẩu.

Hoàn thiện môi trường đầu tư. Muốn thu hút đầu tư cần hoàn thiện môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, cởi mở, trong đó cải tạo cơ sở hạ tầng phải là khâu đột phá. Trước mắt khu nuôi trồng thủy sản thị xã Hoàng Mai đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 5282/QĐ-UBND ngày 28/10/2016. Quan tâm công tác quy hoạch và xây dựng khu dịch vụ hậu cần nghề cá và chế biến thủy sản tập trung; Quan tâm công tác xúc tiến thương mại, xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ, hướng tới xuất khẩu; Tiếp tục phát triển sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP tạo cơ sở mở rộng phát triển thương hiệu đặc sản địa phương... Thu hút đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng du lịch biển theo quy hoạch, gắn du lịch biển với du lịch tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và các di tích lịch sử Quốc gia; khuyến khích đầu tư xây dựng trọng điểm các bãi tắm: Quỳnh Lập, Quỳnh Phương và Quỳnh Liên; nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ nhà hàng khách sạn gắn với công tác bảo tồn các khu di tích lịch sử như: đền Cờn, đền Xuân Úc và các lễ hội truyền thống,... Xây dựng kết cấu hạ tầng biển và ven biển: Tập trung thu hút đầu tư xây dựng dự án: Xây dựng cảng cá Quỳnh Lập; nạo vét cửa Lạch Cờn; đầu tư, cải tạo nâng cấp hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp Hoàng Mai. Ưu tiên bố trí vốn đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thành các dự án: nâng cấp, cải tạo nạo vét sông Mai Giang đoạn đi qua Mai Hùng, Quỳnh Xuân, Quỳnh Liên; cải tạo, nâng cấp kênh nhà Lê đoạn qua khu công nghiệp Hoàng Mai đến Lạch Cờn; công trình kè chống sạt lỡ, tu bổ sông Hoàng Mai, thị xã Hoàng Mai; xây dựng tuyến đê biển và trồng cây chắn sóng vùng Đông Hồi, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Phương.

Cải tạo môi trường đô thị và môi trường biểnphòng chống thiên tai: Làm tốt công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ hệ sinh thái ven biển, hạn chế và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng khai thác thủy hải sản mang tính hủy diệt trái với quy định; làm tốt công tác trồng rừng và bảo vệ rừng ven biển, rừng ngập mặn; nâng cao nhận thức của nhân dân nhằm góp phần bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Xây dựng hệ thống cứu hộ, cứu nạn và cảnh báo thiên tai đủ năng lực bảo đảm an toàn về tính mạng và tài sản của nhân dân trong mùa mưa bão hoặc khi có thiên tai xảy ra.

Không gian kinh tế Hoàng Mai phát triển theo chiều sâu, từng bước hiện đại và đồng bộ. Có nghĩa là cần lựa chọn những ngành có giá trị gia tăng cao, không ô nhiễm môi trường, không tốn kém nhiều đất đai. Hạn chế khai thác tài nguyên đá. Nông nghiệp phải là nông nghiệp sạch. Công nghiệp phải sử dụng công nghệ cao. Khu vực quản trị hành chính phải số hóa. Hạn chế tuyển dụng nhiều lao động. Đô thị du lịch biển cần quan tâm bảo vệ môi trường, cảnh quan. Thị xã đã và đang đẩy mạnh phát triển theo định hướng này, đó là phát triển Hoàng Mai trở thành một đô thị biển gắn với du lịch, dịch vụ, thương mại, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng để đón đầu sự phát triển vùng Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An.  Hy vọng với những giải pháp hỗ trợ, Hoàng Mai sẽ có những hướng đi mới hiệu quả, thu hút được nhiều nhà đầu tư, giúp Hoàng Mai phát triển kinh tế biển bền vững và sớm trở thành đô thị du lịch biển, trọng điểm kinh tế văn hóa nơi địa đầu xứ Nghệ đúng với mục tiêu và tiềm lực sẵn có.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thị xã Hoàng Mai lần thứ II nhiệm kỳ 2020-2025.

2. Quyết định 5721/QĐ-UBND ngày 7 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh Nghệ An về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Hoàng Mai đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030.

3. Báo cáo Kết quả 06 năm thực hiện Đề án phát triển Kinh tế biển giai đoạn 2014-2015, có tính đến năm 2020 của UBND thị xã Hoàng Mai.

 

Lê Văn Phong

Nghệ An(1) là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hóa, văn hiến và đấu tranh cách mạng. Phát huy những thành tích đạt được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghệ An tiếp tục góp phần xứng đáng của mình vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954), thực hiện âm mưu xâm lược của mình, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào thế chân Pháp xâm lược Việt Nam và Lào. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", trong gian khổ khó khăn, tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào lại được phát huy cao độ. Nhân dân Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng lại kề vai sát cánh cùng nhân dân Lào chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.

Tháng 5-1959, trước âm mưu tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng Lào của Mỹ và phái hữu, Tiểu đoàn 2(2) Quân đội Pathét Lào tiến hành phá vây sang đất Nghệ An xây dựng và củng cố lực lượng. Để giúp Tiểu đoàn 2 Quân đội Pathét Lào vượt qua khó khăn, Bộ Quốc phòng Việt Nam lệnh cho Quân khu 4(3) "tổ chức ngay lực lượng, khẩn trương mở đường máu vượt tuyến đánh địch, đón và bảo vệ bằng được Tiểu đoàn 2 về căn cứ an toàn (căn cứ tạm trên đất huyện Tương Dương - Nghệ An)"(4). Triển khai nhiệm vụ, tỉnh Nghệ An cử nhiều đơn vị bộ đội tham gia giải vây cho Tiểu đoàn 2. Không những vậy, tỉnh Nghệ An còn được giao nhiệm vụ quan trọng là "đảm bảo tiếp tế hậu cần kịp thời cho bạn từ hướng Tây Nghệ An (Tương Dương)"(5).

Trên tinh thần "nhường cơm xẻ áo", đồng bào các dân tộc Nghệ An trong vùng đã tích cực chuẩn bị lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men sẵn sàng đón tiếp Tiểu đoàn 2 Quân đội Pathét Lào. Khi cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 đặt chân tới đất Nghệ An, họ được các tầng lớp nhân dân nhiệt tình chào đón. Trong không khí ấm cúng, họ như được trở về quê hương mình "Các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn như Thao Tu, Thoong Xa Vặt, Chăm Niên xúc động không cầm được nước mắt khi gặp lại các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Quân khu 4 và của tỉnh Nghệ An"(6). Đặc biệt, trong quá trình vượt vây sang Nghệ An, vợ một chiến sĩ trong tiểu đoàn sinh con tại bản Hòa Bình (vùng Cửa Rào - Tương Dương). Để ghi nhớ sự giúp đỡ của nhân dân Nghệ An, chị đã đặt tên cho cháu là Hòa Bình. Có thể nói, sự kiện Tiểu đoàn 2 phá vây sang củng cố và xây dựng lực lượng trên đất Nghệ An đã góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói chung và nhân dân Nghệ An với cách mạng Lào nói riêng, điều đó nói lên vai trò quan trọng của Nghệ An đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Lào.

Để giúp cách mạng Lào mở rộng vùng giải phóng, năm 1960, theo yêu cầu của Lào, quân dân Nghệ An cùng một số đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu 4 phối hợp với quân dân Lào mở chiến dịch giải phóng Noọng Hét, trên Đường số 7, tỉnh Xiêng Khoảng. Góp sức vào chiến dịch, tỉnh Nghệ An cử một đại đội công an nhân dân vũ trang tham gia, ngoài ra còn có lực lượng dân quân, du kích huyện Tương Dương làm công tác bảo đảm; dân công các huyện Anh Sơn, Con Cuông phục vụ chiến dịch... Ngày 16-12-1960, chiến dịch tiến công Noọng Hét mở màn. Dù phải vượt qua núi cao, vực sâu, nhiều nơi chưa có dấu chân người, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, nhưng các chiến sĩ và dân công Nghệ An tham gia chiến dịch đã nêu cao truyền thống cách mạng quê hương, khắc phục khó khăn gian khổ, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Với tinh thần cách mạng tiến công, lực lượng vũ trang và dân công Nghệ An cùng quân dân nước bạn đã làm nên chiến thắng Noọng Hét vào ngày 31-12-1960. Thắng lợi này làm cho Đường số 7 được khai thông đến Mường Mộc, tỉnh Xiêng Khoảng, căn cứ kháng chiến của Lào được củng cố và mở rộng. Thắng lợi ở Noọng Hét, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến dịch Nậm Thà 1962 tạo ra bước nhảy vọt cho cách mạng Lào, buộc Mỹ phải chấp nhận thành lập Chính phủ liên hiệp ba phái (12-6-1962) và ký Hiệp định Giơnevơ về Lào (7-1962).

Bước sang năm 1965, tình hình có nhiều chuyển biến. Để phối hợp với chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Lào trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", phát triển các binh đoàn cơ động, thúc đẩy quân phái hữu tiến công quân đội Pathét Lào; đồng thời huy động máy bay đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng và tìm mọi cách phá hoại Chính phủ liên hiệp ba phái. Trước bối cảnh đó, để giúp cách mạng Lào giữ vững thành quả cách mạng giành được, từ ngày 8 đến ngày 10-6-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An. Ban Bí thư xác định vị trí, vai trò quan trọng của Nghệ An lúc này là: "Nghệ An phải đặt hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu ngang nhau, góp phần giúp Quảng Bình, Vĩnh Linh chi viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam và cho chiến trường Lào"(7). Theo đó, cùng với nhiệm vụ chi viện cho nhân dân miền Nam đánh Mỹ, việc đẩy mạnh giúp đỡ cách mạng Lào được Nghệ An đặc biệt chú trọng. Tháng 3-1967, tỉnh Nghệ An thành lập Ban Công tác miền Tây. Tiếp đó, Hội hữu nghị Việt - Lào tỉnh Nghệ An được thành lập, đã tập hợp và đoàn kết những người yêu mến đất nước Lào, đã và đang chiến đấu, công tác ở nước bạn Lào, quan tâm đến sự nghiệp cách mạng Lào tham gia vào công tác đối ngoại nhân dân làm cầu nối cho tình hữu nghị và sự hợp tác giữa Nghệ An và với các tỉnh vùng biên giới của Lào, đặc biệt là Xiêng Khoảng. Và trong thực tế, hoạt động của Hội Hữu nghị Việt - Lào tỉnh Nghệ An đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trên cơ sở cầu nối của Hội Hữu nghị Việt - Lào, tháng 3-1969, đoàn đại biểu hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng có buổi gặp gỡ, trao đổi và ký kết một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội. Trong cuộc gặp này, phía Nghệ An cung cấp cho Xiêng Khoảng nông cụ, muối, vải, gạo, giống cây, giống gia súc, gia cầm, cán bộ khoa học kỹ thuật..., tỉnh Xiêng Khoảng cung cấp cho Nghệ An gỗ, một số giống nông nghiệp đặc trưng. Theo thời gian, tình đoàn kết, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa Nghệ An với cách mạng Lào nói chung và với tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng ngày càng phát triển, phát triển lên một tầm cao mới khi đế quốc Mỹ mở cuộc hành quân "Cù Kiệt" (7-1969) vào khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.

Trong tình thế khẩn trương, để giải quyết số nhân dân chạy ra biên giới Lào - Việt, Đoàn chuyên gia quân sự 959(8) xin ý kiến Trung ương và Quân ủy Trung ương Việt Nam, đồng thời cử cán bộ liên hệ trực tiếp với các Huyện ủy và Tỉnh ủy Nghệ An giúp nhân dân Lào chạy ra khu vực biên giới Mường Xén, Kỳ Sơn. Đoàn chuyên gia quân sự 463(9) dù đang sát cánh cùng Quân khu Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng chống địch đã cử lực lượng hướng dẫn và bảo vệ hàng nghìn dân và gia đình cán bộ băng rừng vượt suối dưới bom đạn ác liệt của địch về nơi sơ tán giáp biên giới Lào - Việt.

Về phía tỉnh Nghệ An, làm tất cả giúp nhân dân Lào tránh khỏi bom đạn của kẻ thù là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghệ An trong những ngày tháng lịch sử này. Lãnh đạo tỉnh xác định, phải "coi đây là nhiệm vụ của tỉnh, ta phải hết sức giúp đỡ bạn, tạo điều kiện thuận lợi cho bạn..."(10). Do đó, nhân dân các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương và Con Cuông đã đón tiếp, giúp đỡ gần hai vạn đồng bào Mường Khun, Mường Pẹc, Mường Ngàn và các gia đình quân nhân tỉnh Xiêng Khoảng sang tản cư. Trong suốt bốn năm, nhân dân Nghệ An và Xiêng Khoảng sống chung như con em một nhà, cùng ăn, cùng ở, sản xuất và chiến đấu, bắt biệt kích, thám báo, bắt giặc lái bị bắn rơi. Con em hai tỉnh đi học chung một trường. Đặc biệt, ở bản Hủa Na, xã Lục Dạ, huyện Con Cuông, vợ chồng chị Bun Pheeng và anh Vi-xít đã làm lễ cưới, sau này chị Bun Pheeng trở thành Ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Tỉnh ủy Xiêng Khoảng, sau đó là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Không chỉ là hậu phương giúp nhân dân Lào sang sơ tán khỏi bom đạn của kẻ thù, chấp hành Chỉ thị của Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 về việc phối hợp với bạn đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt, quân dân Nghệ An đã góp phần quan trọng vào việc trực tiếp bảo vệ hành lang Huội Hằng - Xiêng Khoảng, đánh địch trên đường 7B. Những thắng lợi đó là tiền đề quan trọng, sự cổ vũ lớn lao để quân dân Nghệ An cùng nhân dân các bộ tộc Lào vươn lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Trên đà thắng lợi của cách mạng ba nước Đông Dương nói chung và hai nước Việt - Lào nói riêng, tháng 5-1971, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết Về quyết tâm chiến lược trong năm 1972 là "... đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại mọi bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972"(11). Trên chiến trường Lào, để giúp bạn giành những thắng lợi quyết định trong năm 1972, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân khu 4 cùng bạn mở cuộc tấn công vào khu Trung Lào trên địa bàn tỉnh Khăm Muộn theo trục Đường số 12, chiến dịch mang mật danh 972. Nhằm tạo sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận đường 12, Quân khu 4 chỉ thị cho tỉnh Nghệ An mở Mặt trận 772 trên khu vực Mường Mộc, tỉnh Hà Tĩnh mở Mặt trận 872 trên Đường số 8.

 Sau khi nhận nhiệm vụ, hiểu rõ tính chất và tầm quan trọng của chiến dịch đối với sự phát triển của cách mạng Lào, Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An đã họp bàn kỹ lưỡng các phương án và kế hoạch tác chiến. Tỉnh ủy quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Mặt trận 772 do đồng chí Trần Ngọc Ninh làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Công Từ làm Chính ủy. Nhiệm vụ Mặt trận 772 được Tỉnh ủy xác định là phải nhanh chóng triệt phá căn cứ Mường Nham, Bản Nam - Tha Si vào đầu mùa khô 1972- 1973, sau đó là căn cứ phỉ ở Nam Heo - Na Kun(12).

Chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của Thường vụ Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận 772, bộ đội tham gia chiến dịch đã anh dũng chiến đấu, hết lòng cùng nhân dân nước bạn thực hiện các bước chiến dịch theo kế hoạch đề ra. Kết quả, các đơn vị vũ trang Nghệ An cùng quân dân Lào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh địch. Chiến thắng của Mặt trận 772 cùng với thắng lợi của Mặt trận 972 do lực lượng Quân khu 4 đảm nhiệm trên Đường số 12 đã giải phóng một vùng rộng lớn cho cách mạng Lào, từ tỉnh Xiêng Khoảng (Thượng Lào) xuống tới Bô Ly Khăm Xay và Khăm Muộn (Trung Lào), nối thông hành lang Thượng, Trung và Hạ Lào.

Về phía Mỹ, thất bại liên tiếp trên chiến trường Lào trong mùa khô 1972 - 1973 khiến chúng lâm vào thế bị động về chiến lược. Sau khi ký Hiệp định Pari về Việt Nam (27-1-1973), không còn con đường nào khác, Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào. Tuy vậy, không cam chịu thất bại, hòng giành lợi thế khi Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng cường các hoạt động quân sự trên đất Lào, chủ yếu là dùng không quân yểm trợ cho quân phái hữu và lực lượng đặc biệt của Vàng Pao mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng nhằm giành thêm đất, thêm dân trước khi Hiệp định được ký kết, đồng thời tăng sức ép buộc Pathét Lào phải nhân nhượng cho chúng một số điều khoản có lợi của Hiệp định Viêng Chăn.

Đây là thủ đoạn xảo quyệt, thể hiện rõ quyết tâm Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu mở rộng chiến tranh ở Lào. Nắm bắt tình hình, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 chỉ đạo Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An lệnh cho Bộ Tư lệnh mặt trận 772 ngừng các kế hoạch đang tiến hành, chuyển sang đánh các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, kiên quyết không để một tấc đất nào thuộc vùng giải phóng Lào bị địch lấn chiếm.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ Tư lệnh Mặt trận 772 triển khai lực lượng trên một số hướng chủ yếu mà theo dự kiến địch sẽ tiến hành lấn chiếm trước khi Hiệp định Viêng Chăn ký kết. Với tinh thần khẩn trương, hết lòng vì sự nghiệp cách mạng Lào, trong một thời gian ngắn, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận 772 đã thiết lập xong các trận địa, sẵn sàng đối phó với cuộc phiêu lưu quân sự mới của Mỹ và phái hữu.

 Ngày 16-2-1973, phái hữu Lào sử dụng Binh đoàn 25 (GM) mở cuộc tấn công đánh chiếm cứ điểm Phù Heo. Đây là cứ điểm nằm trong hệ thống núi đá vôi bao quanh thung lũng Tha Si. Nếu chiếm được Phù Heo sẽ khống chế được hoàn toàn vùng Mường Nham thuộc huyện Mường Mộc, tỉnh Xiêng Khoảng - một căn cứ kháng chiến của Pathét Lào. Sau những ngày đầu địch chiếm ưu thế do lực lượng quân sự mạnh, sau khi điều tra nắm chắc tình hình, ngày 19-2-1973, Mặt trận 772 cùng quân dân nước bạn nổ súng đánh địch. Do được chuẩn bị kỹ về mọi mặt cộng với lòng dũng cảm và tình đoàn kết của quân dân Nghệ An với nước bạn Lào, sau nửa giờ chiến đấu, liên quân Lào - Việt làm chủ hoàn toàn cứ điểm Phù Heo. Đây là thắng lợi quan trọng, tạo được thế mạnh cho cách mạng Lào trên bàn hội nghị với Mỹ. Với thất bại này, hy vọng cuối cùng để cứu vãn tình thế và tranh thủ những điểm có lợi trên bàn đàm phán của Mỹ kết thúc, không còn con đường nào khác, ngày 20-2-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Lào được ký tắt. 11 giờ ngày 21-2-1973, Hiệp định Viêng Chăn có hiệu lực. Cũng như Hiệp định Pari về Việt Nam, Hiệp định Viêng Chăn về Lào được ký kết là thắng lợi quyết định của quân dân Lào, đánh dấu bước trưởng thành lớn mạnh của cách mạng Lào, mở ra thời cơ thuận lợi để quân dân Lào tiến lên hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Thắng lợi của Hiệp định Viêng Chăn là minh chứng điển hình về sự giúp đỡ của quân dân Việt Nam nói chung và của tỉnh Nghệ An nói riêng đối với cách mạng Lào. Chỉ tính riêng hai tháng trước khi Hiệp định Viêng Chăn được ký kết, lực lượng vũ trang Nghệ An làm nhiệm vụ trên chiến trường Lào đã "đánh tổng cộng 25 trận lớn nhỏ, diệt và bắt trên 350 tên địch, giành lại được 25 hộ dân với 373 nhân khẩu và giữ được 374 hộ khác với 2.957 nhân khẩu ở lại vùng giải phóng, trong đó có 114 hộ với 704 nhân khẩu thuộc dân tộc Lào Lùm, giải phóng hoàn toàn huyện Mường Mộc và mở rộng thêm vùng Tha Si, Bảo Man, nối liền vùng giải phóng thuộc hai tỉnh Xiêng Khoảng và Bô Ly Khăm Xay"(13).

Sau khi Hiệp định Viêng Chăn có hiệu lực, để phù hợp và tạo sự nhất trí cao trong nhiệm vụ giúp cách mạng Lào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Đảng ủy quân sự tỉnh Nghệ An trong phiên họp từ ngày 22 đến ngày 24-3-1973 đã đề ra nhiệm vụ tác chiến cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường Lào là "tích cực xây dựng cơ sở lâu dài trên đất bạn, đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi tại chỗ, có hậu cứ với quy mô vừa và nhỏ để bám trụ lâu dài. Chuyển bộ đội hoạt động ở Lào thành quân tình nguyện. Tiếp tục giáo dục chính trị tư tưởng làm cho mọi người có sự nhất quán trong quan điểm về trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế vẻ vang để tự xác định bám trụ lâu dài trên đất bạn"(14). Theo chỉ thị trên, tháng 3-1973, Tiểu đoàn 43 tỉnh Nghệ An chuyển thành quân tình nguyện ở Lào. Sau đó, tiểu đoàn khẩn trương hợp đồng cùng quân dân Lào bám sát cơ sở tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện những điều khoản trong Hiệp định Viêng Chăn, giải thích rõ ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định để nhân dân kiên quyết bảo vệ, đấu tranh không cho địch vi phạm... Được sự giúp đỡ của quân dân Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, các vùng giải phóng cách mạng Lào không ngừng được củng cố, các cơ sở cách mạng được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, các thủ tục lạc hậu dần được xóa bỏ, nhân dân các bộ tộc ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi trọn vẹn của cách mạng Lào. Sang năm 1974, do yêu cầu chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam Việt Nam, lực lượng vũ trang Nghệ An làm nhiệm vụ trên đất Lào lần lượt rút về nước, kết thúc vẻ vang nhiệm vụ quốc tế giúp bạn.

Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân dân Nghệ An đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Lào. Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và phương châm chiến lược "Giúp bạn là mình tự giúp mình" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, quân dân Nghệ An luôn kề vai sát cánh với nhân dân Lào chống kẻ thù chung, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Lào. Ghi nhận những chiến công của quân và dân Nghệ An đối với cách mạng Lào, Đảng, Nhà nước Lào đã trao tặng cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Nghệ An nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt hiện nay, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Lào đang làm hết sức mình trong việc giúp tỉnh Nghệ An tìm kiếm cất bốc hài cốt các liệt sĩ hy sinh trên đất Lào. Đó là sự tri ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đối với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Nghệ An đã chiến đấu, công tác và hy sinh trên đất Lào; để lại tấm gương sáng ngời về tình đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng giữa nhân dân Nghệ An với nhân dân Lào, đúng như khẳng định của Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản về tình đoàn chiến đấu Việt - Lào: "Trong lịch sử cách mạnh thế giới cũng đã nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy..."(15).

 

 

 

Chú thích

1. Nghệ An có chung đường biên giới với các tỉnh: Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay và Hủa Phăn.

2. Tính đến năm 1957, quân đội Pathét Lào có hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn 1 đóng ở Xiêng Ngân (Luông Pha Băng), Tiểu đoàn 2 đóng ở Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.

3. Người nhận lệnh trực tiếp là Thiếu tướng Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu.

4,5,6,7, 13,14: BCHQS Nghệ An xuất bản năm 1995: Nghệ An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975), tr.51, tr. 52, tr.99, tr.320, tr.321.

8. Đoàn chuyên gia quân sự 959 thành lập ngày 12-9-1959.

9. Đoàn chuyên gia quân sự 463 thành lập tháng 4-1963.

10. Chỉ thị của số 105/TU ngày 20-9-1969 của Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An gửi các huyện Kỳ Sơn, Con Cuông và Tương Dương, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Nghệ An.

11. Dẫn  theo Nghệ An lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), do BCHQS tỉnh Nghệ An xuất bản năm 1995, tr.215.

12. Đây là những địa danh thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, tr.321.

15. Cayxỏn Phômvihản, Xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.91

* Nghệ An long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An (1030 - 2020)

Tối 30.11, tại TP. Vinh, tỉnh Nghệ An long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 990 năm danh xưng Nghệ An (1030 - 2020) và đón Bằng công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt đình Hoành Sơn.

Trong tiến trình phát triển của dân tộc, Nghệ An là vùng đất không thể tách rời của một dải non sông Việt Nam thống nhất. Đến nay, các di chỉ khảo cổ học được tìm thấy trên nhiều vùng, miền trong tỉnh, đã khẳng định sự hiện diện và đóng góp của cộng đồng cư dân Nghệ An đối với sự hình thành nền văn hóa, văn minh đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Qua các cứ liệu lịch sử, Nghệ An xưa thuộc nước Việt Thường. Trải qua những thăng trầm vùng đất này đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: Hoài Hoan, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Hoan Châu. Đến đầu thời đại nhà Lý, tên Hoan Châu được đổi thành Nghệ An.

Lễ kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sâu sắc thêm vị trí, vai trò, giá trị đặc biệt của vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đã sinh ra vị Cha già dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác Hồ luôn hướng về quê hương với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm, mong mỏi Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc. Đảng, Nhà nước trong suốt thời gian qua cũng luôn quan tâm, tin tưởng, tạo điều kiện thuận lợi để Nghệ An phát triển.

Tại buổi Lễ, lãnh đạo Bộ VHTT&DL đã trao Bằng di tích Quốc gia đặc biệt Đình Hoành Sơn cho tỉnh Nghệ An. Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Hoành Sơn (xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn) đã được Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định số 2082/QĐ-TTg, ngày 25/12/2017, xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

Linh Nhi

* Bộ Khoa học và Công nghệ tặng quà cho đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại Thanh Chương

Để góp phần chung tay hỗ trợ đồng bào vùng lũ lụt Thanh Chương ổn định lại cuộc sống, ngày 26-11-2020, đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ do đồng chí Thân Ngọc Hoàng - Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển KH&CN địa phương làm trưởng đoàn đã đến thăm hỏi, động viên, tặng quà cho người dân bị thiệt hại do lũ lụt trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Do ảnh hưởng của bão số 9, cuối tháng 10 năm 2020, trên địa bàn huyện Thanh Chương đã xẩy ra mưa lớn, gây lũ quét ảnh hưởng trên diện rộng, làm thiệt hại nhiều về người và của của nhân dân. Thiên tai đã để lại hậu quả nặng nề, làm cho cuộc sống của hàng ngàn gia đình gặp khó khăn, nhiều ngôi nhà bị đổ sập và xuống cấp, hàng ngàn hecta rau màu, thủy sản bị mất trắng, nhiều trang trại, gia trại bị thiệt hại lớn và nhiều công trình hư hỏng nặng...

Đoàn đã trao tặng 50 suất quà, tiền mặt với tổng trị giá 50 triệu đồng cho người dân ở địa bàn các xã Thanh Long, Thanh Hà và Thanh Tùng ở Thanh Chương. Sự thăm hỏi, động viên giúp đỡ của tập thể lãnh đạo công chức, viên chức và người lao động cơ quan Bộ Khoa học và Công nghệ đã thể hiện tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách của dân tộc ta và là nguồn động viên để nhân dân Thanh Chương khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định cuộc sống.

Mạnh Cường

* Nghệ An có 101 sản phẩm OCOP năm 2020 tham gia đánh giá phân hạng

 Chiều ngày 09/11, Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) Nghệ An tổ chức khai mạc hội thi đánh giá, phân hạng các sản phẩm OCOP cấp tỉnh năm 2020. Đồng chí Hoàng Nghĩa Hiếu - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì cuộc thi.

Tham gia hội thi phân hạng chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP năm 2020, Nghệ An có 101 sản phẩm thuộc 6 nhóm sản phẩm của các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất trên địa bàn 16 huyện, thị xã, thành phố. 6 nhóm sản phẩm gồm: Thực phẩm; đồ uống; thảo dược; vải may mặc; đồ lưu niệm, nội thất trang trí; dịch vụ du lịch. Trước đó, các sản phẩm đã được Hội đồng đánh giá cấp huyện thẩm định, đánh giá đủ điều kiện đề nghị hội đồng cấp tỉnh tổ chức chấm điểm, xếp hạng sản phẩm.

Tại buổi đánh giá, các tổ chức kinh tế, cơ sở sản xuất đã trình bày câu chuyện sản phẩm của cơ sở và trả lời các câu hỏi của thành viên hội đồng đánh giá. Các sản phẩm được chấm điểm theo bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm Chương trình mỗi xã một sản phẩm, quy định tại Quyết định 1048/QĐ-TTg ngày 21/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

Sau 6 ngày chấm thi, Hội đồng đánh giá, phân hạng sẽ công bố những sản phẩm đạt từ 3 đến 4 sao.

Hồng Bắc

* Tổng kết hoạt động du lịch năm 2020 của Thị xã Cửa Lò

Chiều ngày 11/11, UBND thị xã Cửa Lò tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động du lịch năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021.

Năm 2020, mặc dù dịch bệnh covid 19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch Cửa Lò, Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung, tuy nhiên TX Cửa Lò đã làm tốt công tác phòng dịch, từng bước đưa ngành du lịch phục hồi và phát triển. Tổng lượng khách đến với Cửa Lò đạt 1,8 triệu lượt; Doanh thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ đạt 1.759 tỷ đồng; xây mới và mở rộng thêm 03 cơ sở lưu trú; Công tác chỉnh trang đô thị có nhiều đổi mới;... Trong năm 2021, Cửa Lò phấn đấu đón 3 triệu 150 ngàn lượt khách, tăng 42,5% so với năm 2020; doanh thu dịch vụ du lịch đạt 3360 tỷ đồng, tăng 47,7% so với năm 2020. Tiếp tục mở rộng không gian du lịch về phía Nam, đặc biệt là du lịch ẩm thực đường ven sông Lam, Nghi Hòa. Chú trọng xây dựng các điểm đến tại Cửa Lò, kết nối thành tour tham quan để tuyên truyền, quảng bá, thu hút khách du lịch.

Dịp này, thị xã Cửa Lò cũng đã khen thưởng cho 13 tập thể, 9 cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác du lịch năm 2020.

Hồng Bắc

* Hội thảo khoa học "Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng: Dấu ấn 100 năm vươn tầm hội nhập"

Nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng 100 năm Ngày thành lập, chiều ngày 13/11, Hội thảo khoa học "Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng: Dấu ấn 100 năm vươn tầm hội nhập" được tổ chức.

Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng ra đời năm 1920, trong bối cảnh trên địa bàn tỉnh chưa có trường trung học và học sinh xứ Nghệ khi học hết cấp tiểu học muốn học lên chỉ có cách vào Huế hoặc ra Hà Nội. Năm 2020, trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng tròn 100 tuổi. Trên hành trình xây dựng và phát triển, trường có truyền thống vẻ vang, để lại dấu ấn riêng, dấu ấn trăm năm của mái trường thế kỷ, đặc biệt là đang vươn tới mục tiêu xây dựng trường THPT Huỳnh Thúc Kháng theo mô hình giáo dục tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

Hội thảo đã làm nổi bật: truyền thống hiếu học, truyền thống cách mạng của các thế hệ giáo viên và học sinh của ngôi trường THPT lâu đời nhất của Nghệ An. Ngôi trường này trong thời kỳ lịch sử nào cũng có những giáo viên đi tiên phong trong đổi mới giáo dục, có nhiều học sinh là những nhà khoa học, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chí sỹ yêu nước, anh hùng cách mạng... Đồng thời làm rõ được sự tiếp nối truyền thống hiếu học, học giỏi của học sinh nhà trường. 100 năm qua trường QH Vinh- THPT Huỳnh Thúc Kháng luôn là cái nôi đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước, luôn dẫn đầu Khối THPT không chuyên của tỉnh về chất lượng giáo dục và đi đầu trong đổi mới giáo dục hội nhập.

Hồ Thủy

* Startup Nghệ An giành Quán quân Cuộc thi ''Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia'' 2020

Ngày 29/11, tại Hà Nội, Văn phòng Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Đề án 844), Bộ KH&CN phối hợp với Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (SVF), Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp quốc gia tổ chức chung kết Cuộc thi "Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia".

Sau 3 tháng triển khai từ các vòng loại, Ban tổ chức đã lựa chọn được 10/250 dự án xuất sắc lọt vào vòng chung kết, trong đó có 3 Dự án được trao giải. Dự án Gostream Technology (Startup Nghệ An) với mô hình kinh doanh thực tiễn, ứng dụng công nghệ để nhân rộng và thỏa mãn nhu cầu đa dạng biến đổi của khách hàng đã vinh dự giành giải Nhất cuộc thi, với giải thưởng 200 triệu đồng và đại diện cho Việt Nam tham dự cuộc thi khởi nghiệp Startup World Cup 2021. Giải Nhì thuộc về EM&AI và giải Ba thuộc về Edulive toàn cầu.

Huy Khánh

* Trưng bày 68 Mộc bản quý hiếm và 100 bức ảnh về Nghệ An

Nằm trong chương trình kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An (1030 - 2020), chiều 30/11, tỉnh Nghệ An tổ chức Triển lãm "Những dấu mốc lịch sử hình thành tỉnh Nghệ An trong mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới" và Triển lãm ảnh "Nghệ An hội nhập và phát triển".

Trong hành trình phát triển, nguồn tư liệu Mộc bản triều Nguyễn khắc ghi về những dấu mốc hình thành và phát triển của tỉnh Nghệ An cũng như chuỗi các hình ảnh về chặng đường phát triển và hội nhập của Nghệ An được tái hiện qua 68 hình ảnh Mộc bản quý hiếm được trích ra từ các Mộc bản triều Nguyễn và 100 bức ảnh của 33 nghệ sỹ nhiếp ảnh là tài sản quý giá của nhân dân Nghệ An nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Tài liệu Mộc bản được làm bằng những tấm gỗ, trên đó được khắc bằng chữ Hán hoặc chữ hán Nôm được dùng để in thành sách và được dùng phổ biến ở Việt Nam trong thời phong kiến; cũng là nguồn tư liệu lịch sử tin cậy, chân thực, giúp công chúng hiểu rõ hơn về những dấu mốc lịch sử của vùng đất Nghệ An.

Triễn lãm sẽ được diễn ra trong 10 ngày (từ 30/11 - 10/12/2020). Sau đó, các tư liệu sẽ được trưng bày luân phiên tại các địa phương trên địa bàn tỉnh.

Linh Nhi

* Nghệ An: Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh

Ngày 26/11, Đảng ủy, UBND xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn.          

Hoàng Tá Thốn sinh năm 1254 tại làng Vạn Phần, nay là xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu. Theo sử sách ghi lại, năm 1288 trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, do có công lớn dụ hàng quân địch, bắt sống Ô Mã Nhi - một đại tướng tin cẩn của vua Nguyên Mông, Ngài được vua Trần Nhân Tông phong danh hiệu "Sát Hải chàng lại đại tướng quân". Sau này, Ngài được giao thống lĩnh thuỷ binh, trông coi 12 cửa sông và bảo vệ vùng duyên hải nước ta lúc đó và được tiến cử bổ nhiệm làm Nội Thư Gia. Ngài mất vào ngày 1/1 năm Ất Hợi 1339, thọ 85 tuổi với tước phong "Sát Hải Đại vương", thi hài được mai táng và lập đền thờ tại xứ Mả Cháy tổng Vạn Phần, nay là xã Diễn Vạn huyện Diễn Châu. Ngài được nhiều địa phương lập đền thờ, trong đó có nhân dân xã Tào Sơn - huyện Anh Sơn.

Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn vinh dự được UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh góp phần gìn giữ giá trị văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của người dân Tào Sơn nói riêng và nhân dân vùng Anh Sơn nói chung.

Huy Khánh

* Ra mắt sách "Năm xưa tỉnh Nghệ, thành Vinh"

Tối 29/11, Sở Văn hoá - Thể thao và Nhà xuất bản Nghệ An, nhóm Vinh xưa ra mắt sách: "Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" của nhà nghiên cứu Phạm Xuân Cần.

"Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" tập hợp gần 500 bức ảnh rất có giá trị về tỉnh Nghệ An và thành phố Vinh cuối thế kỉ 19, đầu thế kỷ 20. Sách được chia làm 5 phần: đất nước - con người; các công trình văn hoá, tín ngưỡng; chính trị, kinh tế; đô thị; văn hoá xã hội. Trong đó có những bức ảnh xưa nhất, chụp năm 1890, cách nay 130 năm, tái hiện khá đầy đủ, sinh động, rõ nét và trình tự về cảnh sắc thiên nhiên, đất nước, con người, các di sản văn hoá, hoạt động chính trị, kinh tế, VH-XH ở Nghệ An và đô thị Vinh từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Ấn phẩm được tác giả dày công sưu tầm, nghiên cứu, chắt lọc, tập hợp trong gần 20 năm. Đêm ra mắt sách "Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" đã thu hút sự quan tâm của giới trí thức văn sĩ, nhà nghiên cứu văn hoá lịch sử xứ Nghệ, cùng đông đảo bạn đọc ở mọi tầng lớp.

Hồ Thủy

* Giới thiệu sách: Vững vàng một niềm tin

Tháng 9 năm 2020, Nhà xuất bản Nghệ An đã cho ra mắt bạn đọc ấn phẩm "Vững một niềm tin" của tác giả Hà Văn Tải.

Đây là cuốn sách nằm trong chuỗi các đầu sách đặt hàng của UBND tỉnh năm 2020, tập hợp 23 bài viết của tác giả đã được đăng tải trên các báo, tạp chí với nội dung ghi lại những tình cảm, trăn trở, nghĩ suy của một cán bộ, đảng viên lão thành có nhiều năm lăn lộn, cống hiến với công tác Đảng (năm nay ông đã 90 tuổi và đã có 72 năm tuổi Đảng).

Vững một niềm tin là thông điệp của tác giả: Luôn thuỷ chung son sắt đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ niềm tin yêu bất diệt đó, tác giả đã lồng ghép, gửi gắm những trăn trở đối với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời đại ngày nay. Làm sao để Đảng gần dân hơn, được dân tin yêu hơn,…Với ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, tin chắc cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích dành cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong và ngoài tỉnh nhân dịp chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX và tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII.

Trịnh Thủy

 

  •  



NHUẬN BÚT


Tác giả:
Tiêu đề: Chuyên san KHXH&NV số 11/2020
Ngày xuất bản: Thứ hai - 23/11/2020 21:28
Nội dung:

Thiên Trang

Nắng nóng, hạn hán kéo dài ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân ở miền Tây Nam bộ còn chưa qua thì lũ lụt ở miền Trung lại đến. Nước lũ còn chưa rút thì bão chồng bão từ biển lại vào. Dưới xuôi lũ lụt còn hoành hành thì trên núi sạt lở lại đe dọa tính mạng nhiều người; những đợt rét đậm rét hại, đóng băng tạo tuyết tàn phá cuộc sống sinh kế người dân; nước biển dâng lên đe dọa sẽ nuốt chửng nhiều đô thị khác nhau. Thiên tai trở thành một vấn đề khiến toàn thể người dân, hệ thống chính trị lẫn các tổ chức xã hội đều khiếp sợ. Nó đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng làm đau đầu những người quan tâm. Và đây cũng là thời điểm cần phải xem lại mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên, dù rằng đã rất muộn màng, nhưng còn hơn im lặng để rồi vô phương xử lý. Những kinh nghiệm của các cộng đồng trong việc xử lý mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên được nhiều người quan tâm xem xét lại. Hay việc phát huy sức mạnh cộng đồng trong việc xử lý hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống. Đó những vấn đề không mới nhưng lại rất được quan tâm vì có nhiều giá trị trong việc giảm thiểu rủi ro, phòng chống thiên tai trong bối cảnh hiện nay.

Cộng đồng và văn hoá cộng đồng

Cộng đồng là một khái niệm trừu tượng. Và vì quá trừu tượng nên thường gây ra những nhầm lẫn cả vô tình hoặc cố ý. Người ta nói về cộng đồng như là một tập hợp/tập thể/nhóm/ người khác nhau có chia sẻ chung một số yếu tố văn hoá xã hội và lèo lái nó theo cách của riêng mình trong những mục tiêu nhất định. Liệu hiểu như vậy về cộng đồng có đúng hay không và có gây nên những hệ luỵ khác khi không ít người cố tình dẫn dắt khái niệm đi theo những nội hàm không phù hợp để đạt được những mục tiêu cá nhân hay nhóm khác nhau. Nó giống như cách người ta đã làm với khái niệm nhân dân trong nhiều năm qua. Vậy, cộng đồng và văn hoá cộng đồng là gì và cần hiểu như thế nào cho phù hợp?

Cộng đồng có thể được hiểu là một nhóm người có một lịch sử nhất định và gắn kết với nhau qua việc chia sẻ những đặc trưng văn hoá riêng được gọi là văn hoá cộng đồng. Văn hoá trong cách hiểu này là theo nghĩa rộng của nó. Theo Hà Hữu Nga (2020) thì khái niệm văn hóa cộng đồng có nguồn gốc từ các xã hội nông thôn truyền thống, gắn kết trong phạm vi một địa bàn nhất định, và mang ý nghĩa là tinh thần chung, có chung các chuẩn mực về quê hương bản quán, phong tục, tôn giáo, các giá trị và bản sắc. Như vậy, cộng đồng ban đầu gắn với nông thôn với yếu tố đầu tiên và quan trọng là địa bàn sinh sống nhất định, mà các giá trị văn hoá cốt lõi gắn kết cộng đồng là chuẩn mực quê hương bản quán, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, các giá trị và bản sắc. Tuy nhiên, ngày nay, khái niệm văn hoá cộng đồng cũng được thay đổi theo hướng "mở rộng, vừa kế thừa các yếu tố truyền thống trên, nhưng lại chuyển tải các đặc trưng thời đại" (Hà Hữu Nga 2020, trang 3). Theo đó, có 4 đặc trưng quan trọng nhất của văn hoá cộng đồng bao gồm: Đặc trưng địa điểm của văn hóa cộng đồng: là nơi mọi người có những điểm chung, và yếu tố chung này được hiểu về phương diện địa lý, còn có một cách gọi khác là "tính địa phương". Đặc trưng cộng cảm của văn hóa cộng đồng: là cảm giác gắn bó với một địa điểm, nhóm hay ý tưởng; "cộng cảm" không chỉ với người khác mà còn với các ý niệm siêu việt như Thần, Phật, Thượng đế, Thiên Chúa, Tạo hóa, v.v... Willmott cho rằng "Cần phải bổ sung thêm một cách hiểu biết nữa về cộng đồng - là cộng đồng gắn bó - vì các cộng đồng địa phương hoặc cộng đồng sở thích có thể không có ý thức về bản sắc chung" (Willmott 1986). Nói cách khác, theo Cohen: "Cộng đồng đóng một vai trò tượng trưng quan trọng trong việc tạo ra cảm giác thuộc về ai, cái gì hoặc ý niệm nào đó, một yếu tố quan trọng mà Putnam gọi là "vốn xã hội" (Cohen 1985: 118). Đặc trưng sở thích của văn hóa cộng đồng: còn gọi là cộng đồng "tự chọn", mọi người có chung một số đặc điểm nào đó không nhất thiết phải là đặc điểm địa phương. Các cộng đồng tự chọn và các cộng đồng có chung sở thích là một đặc điểm chính của cuộc sống đương đại (Hoggett 1997). Và chúng tôi muốn bổ sung thêm biến số thứ tư: Đặc trưng lợi ích của văn hóa cộng đồng: có thể coi đây là một biến số trung tâm của khái niệm cộng đồng hiện đại với vô số biến thể khác nhau của các nhóm lợi ích gắn liền với các lĩnh vực/ khía cạnh môi trường, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, an ninh v.v. Trong xã hội ngày nay có vô số cộng đồng sở thích/ lợi ích không thuần túy mang đặc trưng truyền thống địa phương, mà pha trộn nhiều bản sắc khác nhau, tạo thành những bản sắc cộng đồng mới (Hà Hữu Nga 2020, trang 3-4).

Nói đến văn hoá cộng đồng thì phải nói đến bản sắc văn hoá cộng đồng. Theo Hà Hữu Nga (2020, trang 4), "Bản sắc (văn hoá) của một cộng đồng là sự đồng nhất của tất cả các thành viên trong cộng đồng đó với một hoặc một hệ giá trị thường được biểu hiện bằng một hoặc một hệ biểu tượng được cộng đồng sáng tạo và/hoặc lựa chọn". Trên phương diện xã hội, bản sắc văn hoá cộng đồng là một thuộc tính được cấu thành và được sáng tạo nên, còn tính cách cộng đồng thì biểu hiện những thuộc tính văn hoá đã được định hình và bền vững. Bản sắc văn hoá cộng đồng giữ một vai trò quan trọng trong việc định danh, phân biệt cộng đồng vì nó tạo nên sự khác biệt giữa các cộng đồng.

Tóm lại, cộng đồng theo nghĩa ban đầu là một nhóm người gắn với địa bàn cư trú và chia sẻ nhiều giá trị văn hoá cốt lõi. Và càng ngày, khái niệm cộng đồng càng được mở rộng theo các hướng khác nhau nhằm bao quát hơn về hiện thực xã hội và sự thay đổi của nó. Mỗi cộng đồng đều có bản sắc văn hoá riêng và nói đến cộng đồng là nói đến những nhóm người nhất định gắn với hệ thống giá trị của nó. Nên cộng đồng cũng cần phải được hiểu cụ thể là những ai và đặc trưng của họ là gì. Trong sự phát triển, cộng đồng giữ vai trò vô cùng quan trọng khi mà những giá trị văn hoá của nó được các thành viên chia sẻ và nó trở thành những thể chế quản trị xã hội. Vậy nên, trong bối cảnh lịch sử nhất định, khai thác các giá trị văn hoá cộng đồng vào việc quản trị xã hội hay tìm những con đường phát triển bền vững là vô vùng quan trọng. Đối với vấn đề phòng chống thiên tai hiện nay cũng không ngoại lệ, bên cạnh những liệu pháp khoa học hiện đại thì cũng cần nghiên cứu và vận dụng các giá trị văn hoá cộng đồng một cách phù hợp.

Tri thức cộng đồng bản địa về mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên

Khởi nguyên của khái niệm cộng đồng là để chỉ các khối dân cư vùng nông thôn, vốn là những nhóm người phải đối diện với nhiều thiên tai hàng năm. Vậy nên, trong hầu hết kho tàng tri thức của cộng đồng đều có những tri thức liên quan vấn đề giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra. Trong đó, tri thức về khai thác và quản lý các nguồn tài nguyên là yếu tố giữ vai trò quan trọng. Vậy nên trong thời gian gần đây, những nghiên cứu về việc khai thác và vận dụng tri thức cộng đồng vào việc quản lý tài nguyên, giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tiêu biểu như các nghiên cứu của Vi Văn Đông (1997), Nguyễn Ngọc Thanh (2011), Trần Hữu Sơn (2008, 2014, 2017), Nguyễn Ngọc Thanh và Ngô Thị Chang (2016),… Tuy nhiên, xét cho cùng đây cũng là những nghiên cứu đi sâu tìm hiểu những ứng xử của các cộng đồng tộc người sinh sống ở miền núi đối với môi trường tự nhiên và xem đây như là sự thích ứng cũng như những nỗ lực lý giải cho việc suy thoái tài nguyên trong nhiều năm gần đây. Trong khi đó, vấn đề rộng lớn hơn, vốn đã được nhiều học giả lớn quan tâm, là vấn đề về thế giới quan, về quan điểm nhân sinh trong mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên. Với nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi thì con người, mà cụ thể ở đây là chính họ, là một phần nhỏ của tự nhiên, thuộc về tự nhiên. Triết lý quan trọng nhất của các cộng đồng này chính là sống hài hoà với tự nhiên. Họ không có khát vọng cải tạo tự nhiên, càng không sở hữu tự nhiên. Bởi họ cũng chỉ là một phần tự nhiên. Một minh chứng dễ dàng nhận thấy nhất là ứng xử của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số vùng miền núi với tài nguyên rừng. Những người Mông trên đỉnh núi cao hay các cộng đồng tộc người ở Tây Nguyên đều xem mình là một phần của rừng. Họ không coi rừng là của bản, rừng của mình mà bản thân mình hay bản làng là của rừng, thuộc về rừng. Nên rừng là Giàng, là Mẹ, là một đấng linh thiêng. Nói cách khác, rừng là một nhân tố quan trọng trong cấu trúc văn hoá của cộng đồng. Rừng thiêng nên không phải ai cũng có thể vào rừng, và không phải ứng xử với rừng như thế nào cũng được. Còn những người miền xuôi quan niệm về rừng khác với người miền núi. Họ xem rừng như là một nguồn tài nguyên để khai thác. Đối với các nguồn tài nguyên khác như đất, nước cũng tương tự. Mỗi một cộng đồng đều có những quan niệm và hệ thống tri thức bảo vệ và quản lý tài nguyên riêng. Nhìn chung là các cộng đồng bản địa đều lựa chọn cuộc sống hài hoà với tự nhiên, trân trọng và có phần nào đấy là sợ hãi đối với tự nhiên.

Thực ra, nghiên cứu về quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên đã được các nhà khoa học quan tâm từ lâu. Trong những nghiên cứu của mình, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi đã nhiều lần đề cập đến mối quan hệ này. Giữa những năm 1970, trong công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa người Mường và môi trường tự nhiên đồi núi, Từ Chi đã nhận định rằng nhiều nét đặc trưng văn hóa của người Mường được hình thành trong quá trình thích nghi và khai phá đồi núi để sinh sống. Đây là mối quan hệ kép, tác động hai chiều, con người vừa là tự nhiên, vừa là lực lượng cải tạo, khai thác tự nhiên nhưng cũng là chịu ảnh hưởng và quy định của môi trường tự nhiên (Nguyễn Từ Chi, 1976). Sau đó, quan hệ con người với môi trường tự nhiên, được ông tổng kết lại rằng: "Thực ra, từng nền văn hóa, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng, để tồn tại, phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó" (Nguyễn Từ Chi, 1996a, tr 554). Tuy coi trọng tính thích ứng của nền văn hóa, nhưng Từ Chi cũng nhấn mạnh: "Trước sức cản trở mà thiên nhiên gây ra đối với cuộc sống của mình, con người không thể vượt qua thuần bằng sức mạnh bản năng như các động vật khác, mà chỉ có thể đối đầu bằng cách cùng cộng đồng mình cải tạo tự nhiên, thay đổi bộ mặt của nó, buộc nó không còn là thiên nhiên như cũ nữa, bắt nó phục vụ lại mình" (Nguyễn Từ Chi, 1996a, tr 555). Theo Từ Chi, có hai yếu tố chính quyết định đến diện mạo của nền văn hóa tộc người, thứ nhất là môi trường tự nhiên mà tộc người đó định cư và thứ hai là nguồn gốc của tộc người đó (Nguyễn Từ Chi, 1996b, tr 415-416). Những kết quả nghiên cứu dân tộc học của Từ Chi về mối quan hệ giữa con người với môi trường đã đi đến kết luận rằng: "Nguồn gốc tộc người, có sự giao lưu văn hóa, nhưng điều kiện cho một nền văn hóa ra đời-môi trường, mới là cái quan trọng nhất. Nghiên cứu môi trường, nói nôm na là nghiên cứu sự ứng xử của con người với môi trường để sản sinh ra các nền văn hóa là một công việc cực kỳ quan trọng của ngành dân tộc học" (Nguyễn Từ Chi, 1996b, tr 416). Những quan điểm nghiên cứu đó cho thấy Từ Chi là một nhà nghiên cứu đã vận dụng những lý thuyết về nhân học sinh thái, mà ở đây chủ yếu là sinh thái học văn hóa (hay cũng có thể nói ở một góc độ khác là nhân học văn hóa) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với môi trường.

Những nghiên cứu của Từ Chi đã có ảnh hưởng nhất định đến các nhà nghiên cứu dân tộc học khác. Đầu những năm 1980, một số nhà dân tộc học bắt đầu quan tâm đến vấn đề mối quan hệ con người và môi trường trong các nghiên cứu dân tộc học. Trước hết là một cái nhìn tổng quan của Khổng Diễn về địa lý tộc người và việc nghiên cứu ở nước ta (Khổng Diễn, 1981). Dù chưa phải là nghiên cứu chuyên sâu về sinh thái học nhưng dưới góc nhìn địa lý học tộc người, bài viết đã phần nào phác họa và đặt ra một số vấn đề nghiên cứu về môi trường với con người, cụ thể là các dân tộc thiểu số. Sau đó, ông tiếp tục đi sâu nghiên cứu và hoàn thành bài viết "Mối quan hệ giữa môi trường và con người miền núi nước ta" (Khổng Diễn, 1998). Trong khi đó, Diệp Đình Hoa trong một nghiên cứu lại đặt ra vấn đề bảo vệ môi trường và an ninh biên giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở miền núi (Diệp Đình Hoa, 1982). Hai nhà nghiên cứu khác là Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng lại đi sâu phân tích những ảnh hưởng của hệ sinh thái đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một cộng đồng cụ thể là người dân tộc Thái (Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng, 1982). Càng về sau này, những quan tâm nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người với môi trường càng được các nhà dân tộc học chú ý hơn.

Nhìn chung, con người với môi trường tự nhiên có quan hệ qua lại với nhau. Con người là một phần tự nhiên nhưng cũng luôn tìm cách tác động vào tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Nhưng càng ngày, với những công cụ hiện đại hơn, con người đã tác động quá mạnh mẽ khiến tự nhiên bị thay đổi và sự thay đổi đó quá nhanh và mạnh nên tạo ra những thiên tai tác động ngược lại con người. Để con người sống hài hoà hơn với tự nhiên thì cần quan tâm đến các tri thức quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý. Con người cần phải biết sợ tự nhiên, bởi tự nhiên sinh ra con người và dù phát triển đến đâu thì con người cũng chỉ là một phần của tự nhiên.

Xử lý hậu quả thiên tai từ sức mạnh cộng đồng

Thiên tai luôn đổ xuống đầu những người nghèo. Đây không phải là một định kiến về văn hoá mà là một diễn ngôn thể hiện năng lực giải quyết vấn đề cuộc sống cũng như giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra của những người nghèo. Bởi họ không có nhiều lựa chọn trong cuộc sống nên phải đối diện và hứng chịu những hậu quả do thiên tai gây ra. Trong khi đó, việc khai phá tự nhiên quá mức gây đứt gãy môi trường tự nhiên lại đến từ nhiều nhóm khác mà nhóm nghèo thường thuộc nhóm tác nhân thứ yếu. Ví như xây dựng một nhà máy thuỷ điện thì phá huỷ rất nhiều rừng đầu nguồn và làm ảnh hưởng đến các dòng chảy. Và hầu như nhóm người nghèo không can thiệp được vào việc xây dựng thuỷ điện. Nhưng lũ lụt, sạt lở thì thường lại đe doạ trực tiếp cuộc sống của người nghèo. Vậy nên, nếu để mặc những người nghèo xử lý hậu quả mà thiên tai gây ra thì khó khăn hơn nhiều và tiềm ẩn nhiều nguy cơ về xung đột xã hội hơn. Do vậy, phát huy sức mạnh cộng đồng vào việc xử lý hậu quả, tác hại do thiên tai gây nên cũng là một vấn đề quan trọng.

Ở đây, chúng ta cần hiểu là khái niệm cộng đồng đã được mở rộng như các lập luận ban đầu đưa ra trong bài viết. Nếu cộng đồng trong nội dung phía trước tập trung vào các cộng đồng bản địa, lấy yếu tố địa điểm sinh sống và đặc trưng văn hoá làm cơ bản, thì cộng đồng tham gia vào việc xử lý các tác hại do thiên tai gây ra có thể hiểu rộng hơn, là những cộng đồng chung sở thích, chung lợi ích hay chia sẻ một số giá trị khác trong xã hội. Thậm chí là những cộng đồng được xây dựng qua các mạng lưới xã hội khác nhau, bao gồm cả những mạng xã hội công nghệ thông tin tạo ra.

Khi có thiên tai gây ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, nhiều cộng đồng khác nhau đã cùng chung sức để khắc phục hậu quả và giúp đỡ người dân vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Trong đó tập trung hầu hết vào việc quyên góp ủng hộ tiền bạc cũng như vật chất để hỗ trợ, giúp đỡ những người dân nghèo vùng bị thiên tai ảnh hưởng mạnh mẽ. Sự quyên góp được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau và cách thức tiến hành hỗ trợ, giúp đỡ cũng khác nhau. Bên cạnh những cộng đồng chính trị được các tổ chức Đảng và Nhà nước lãnh đạo thực hiện các công tác hỗ trợ theo hình thức truyền thống, chủ yếu thông qua sự đóng góp của những người làm việc trong lĩnh vực nhà nước và cũng thực hiện sự hỗ trợ qua hệ thống chính trị. Thì những năm gần đây xuất hiện nhiều cộng đồng dân sự khác nhau tham gia vào việc hỗ trợ những người dân nghèo vùng bị thiên tai tàn phá để ổn định cuộc sống. Những cộng đồng này là những nhóm người có quan hệ xã hội với nhau thông qua sự chia sẻ một số giá trị chung. Họ liên kết chủ yếu dựa trên tinh thần tự nguyện và cách làm của họ mang tính trực tiếp tương đối hơn mà không qua hệ thống chính trị. Thường thì các cộng đồng này thực hiện sự hỗ trợ của mình thông qua một số cá nhân có sức lan toả mạnh mẽ. Trường hợp như Phan Anh năm 2016 hay Thuỷ Tiên năm 2020 khi đứng ra kêu gọi cộng đồng ủng hộ để cứu trợ những người bị lũ lụt ở miền Trung là điển hình và được nhiều người biết đến. Nhưng họ không phải làm việc riêng lẻ mà có cả một cộng đồng chia sẻ cùng nhau từ việc quyên góp tiền bạc đến quá trình thực hiện, phương án tiến hành và cả phương thức, kế hoạch. Từ hàng chục tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng được nhiều người đóng góp và qua những nhóm người này đã đến với những người dân vùng bị lũ lụt. Cách làm của các cộng đồng dân sự này thường cố gắng tối đa hoá sự minh bạch thông tin cũng như tài chính cho những người liên quan nắm được. Và những người tham gia hỗ trợ cũng đặt niềm tin vào nhóm người mà họ lựa chọn để gửi gắm tình cảm của mình cho người vùng thiên tai. Vì các cộng đồng hiện đại liên kết với nhau lỏng lẻo hơn nên những quy định ràng buộc cũng hạn chế hơn và đương nhiên tính linh động của nó cao hơn so với các cộng đồng truyền thống vốn được liên kết bằng một hệ thống thể chế nghiêm ngặt. Nhưng trong những trường hợp khẩn cấp thì những cộng đồng có tính linh động cao thường xử lý vấn đề một cách hiệu quả hơn.

Trong xã hội hiện đại có nhiều cộng đồng khác nhau, không chỉ là những cộng đồng văn hoá địa phương như trước đây mà còn nhiều cộng đồng khác tồn tại dựa trên các mối quan hệ lỏng lẻo hơn với một vài đặc trưng được những người trong cộng đồng chia sẻ. Thực chất đây là những nhóm xã hội dân sự hình thành dựa trên các mối liên hệ khác nhau từ nghề nghiệp, lợi ích, sở thích, hoàn cảnh, độ tuổi, giới tính…. Các cộng đồng hiện đại có nhiều nguồn lực khác nhau và có tính linh động cao. Vậy nên, phát huy được sức mạnh của cộng đồng vào việc xử lý hậu quả, ổn định cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai là điều có giá trị rất lớn. Không phải cái gì chính quyền nhà nước cũng cần phải làm và có thể làm, mà có những việc nên động viên nguồn lực toàn xã hội, trong đó cần phát huy được sức mạnh cộng đồng.

Phát triển bền vững dựa vào nhân tố cộng đồng

Ở trên đây, chúng ta vừa thảo luận về hai vấn đề liên quan đến vai trò của cộng đồng trong phòng chống thiên tai và xử lý hậu quả do thiên tai gây ra cho cuộc sống người dân. Đây là hai vấn đề liên quan đến khái niệm cộng đồng và sự thay đổi của nó trong những bối cảnh nhất định. Trong phần đầu, khi nói về cộng đồng với nghĩa là những cộng đồng có sự liên kết về mặt lịch sử văn hoá lâu dài. Qua hàng trăm năm sinh tồn và phát triển, các cộng đồng này đã hình thành những hệ thống tri thức liên quan đến việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nhằm bảo vệ sự hài hoà mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên. Các cộng đồng với thiết chế truyền thống luôn coi trọng mối quan hệ hài hoà với tự nhiên. Và mối quan hệ hài hoà đó có giá trị rất lớn đối với quá trình phát triển của con người. Nhưng trong một thời gian dài, người ta xem những tri thức đó của cộng đồng bản địa là lạc hậu, có ít giá trị trong việc cải tạo, chinh phục tự nhiên. Tuy nhiên, khi đối diện với những trận thiên tai ngày một nặng nề hơn làm cho người ta tỉnh ngộ và hiểu rằng sống hài hoà với tự nhiên là điều vô cùng quan trọng nếu con người còn muốn tiếp tục sinh tồn dài dài. Phần thứ hai cũng liên quan đến cộng đồng nhưng theo một nghĩa khác là những cộng đồng hiện đại không phải dựa trên những mối liên kết về lịch sử văn hoá mà đa dạng hơn và linh động hơn. Thiên tai tàn phá cuộc sống con người ngày càng ghê gớm hơn nên hậu quả cũng nặng nề hơn. Vậy nên ngoài những hỗ trợ đến từ các chính sách nhà nước thì cần sự hỗ trợ của các cộng đồng khác nhau để giúp những người dân nghèo bị ảnh hưởng của thiên tai có điều kiện ổn định cuộc sống. Sự minh bạch thông tin, linh động về hình thức tổ chức và tự nguyện về sự tham gia là những thế mạnh của các cộng đồng hiện đại. Vậy nên, nó vừa bổ trợ được cho những yếu khuyết của hệ thống chính trị lẫn thị trường, vừa phù hợp trong những trường hợp cần giải quyết các vấn đề một cách nhanh chóng.

Trong xã hội hiện đại, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ nên khả năng khai thác tài nguyên, cải tạo tự nhiên của con người càng mạnh mẽ hơn. Và sự tàn phá của con người với tự nhiên cũng khủng khiếp hơn. Người ta nghĩ mình đã làm chủ được tự nhiên, chinh phục xong tự nhiên mà quên đi rằng mình là một phần nhỏ của tự nhiên mà thôi. Vậy nên, cái giá phải trả của quá trình chinh phục, tàn phá tự nhiên là thiên tai liên miên, năm sau lại nặng nề hơn năm trước. Nhiều vấn đề môi trường và nhiều thiên tai vượt ra khỏi ranh giới cộng đồng, ranh giới quốc gia và trở thành vấn đề toàn cầu. Và phát triển bền vững là con đường mà phần lớn các quốc gia trên thế giới đã lựa chọn trong gần nửa thế kỷ qua. Phát triển bền vững có nhiều giai đoạn và nhiều mục tiêu cũng như phương pháp khác nhau. Trong đó, có xu hướng hiện nay là phát triển bền vững lấy cộng đồng làm nhân tố trung tâm. Đây là xu hướng được nhiều nhóm coi trọng vì những vấn đề liên quan đến môi trường thường không thể thực hiện theo tư cách cá nhân, và cũng không dễ thực hiện ở cấp độ quốc gia, nên cộng đồng là đơn vị có thể mang lại hiệu quả. Dù rằng cộng đồng là một khái niệm trừu tượng, nhưng nó luôn có giá trị bởi sự chia sẻ các giá trị chung của các thành viên. Khi các mục tiêu được các cộng đồng đặt ra thì thường các thành viên sẽ nỗ lực để hoàn thành. Và quan trọng hơn, người ta còn hướng đến xây dựng những cộng đồng lấy mục tiêu phát triển bền vững làm trọng tâm và cũng là lực liên kết giữa các thành viên trong cộng đồng đó. Điều đó mở ra tương lai cho việc hình thành những hệ thống các cộng đồng lấy mục tiêu phát triển bền vững làm trọng tâm để phát triển và nó sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, hạn chế biến đổi khí hậu và qua đó giảm thiểu rủi ro do thiên tai gây ra.

 

 

 

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Từ Chi (1976), Người Mường và núi đồi, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 89-101.

2. Nguyễn Từ Chi (1996a), Từ định nghĩa của văn hóa, In trong "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

3. Nguyễn Từ Chi (1996b), Quanh chuyện cảnh quan và bộ mặt tộc người, In trong "Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người", Nxb Văn hóa Thông tin và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

4. Khổng Diễn (1981), Vài nét về địa lý tộc người và việc nghiên cứu ở nước ta, Tạp chí Dân tộc học, số 1, tr 23-28.

5. Khổng Diễn (1998), Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người ở miền núi nước ta, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 15-20.

6. Diệp Đình Hoa (1982), Phát triển kinh tế xã hội miền núi với những vấn đề bảo vệ môi trường và an ninh biên giới, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr 17-27.

7. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1982), Hệ sinh thái với kinh tế và xã hội dân tộc Thái, Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr 28-37.

8. Hà Hữu Nga (2020), Vốn văn hoá và phát triển du lịch, Tài liệu TS Trần Hữu Sơn chia sẻ.

9. Trần Hữu Sơn (2008), Người Dao Họ ứng xử với nguồn nước, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 286.

10. Trần Hữu Sơn (2014), Ứng xử với người Dao với biến đổi khí hậu, Tạp chí Văn hoá Dân gian, số 2.

11. Trần Hữu Sơn (2017), Ứng xử với môi trường tự nhiên của người Dao ở Tây Bắc, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

 12. Nguyễn Ngọc Thanh (2011), Dân tộc Dao với tập quán sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 12.

Nguyễn Ngọc Thanh và Ngô Thị Chang (2016), Quy ước sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên của người Dao ở Việt Nam, In trong "Nhân học ở Việt Nam: một số vấn đề lịch sử, nghiên cứu và đào tạo". Nxb Tri thức, Hà Nội.

 

Nguyễn Ngọc Chu

 

1. Về tác động đa dạng của thủy điện ở ba miền Bắc - Trung - Nam

Thuỷ điện là nguồn năng lượng quý giá. Nhưng phải được sử dụng một cách khoa học. Nếu không, nó sẽ mang lại những tác hại khôn lường. Với Việt Nam, thuỷ điện đang mang đến những thách thức sống còn cho nhiều thế hệ con người, động vật, sinh vật trên phạm vi toàn lãnh thổ.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, việc Trung Quốc xây hàng chục thuỷ điện lớn trên thượng nguồn sông Mê Kông là những cú đòn chí tử lên toàn bộ môi trường sống. Sau Trung Quốc, các đập thuỷ điện của Lào, Campuchia trên sông Mê Kông, của Myanmar, Thái Lan và Việt Nam trên lưu vực sông Mê Kông đã đồng loạt trở thành những đòn đánh bồi tổng hợp - đưa môi trường sống ở đồng bằng sông Cửu Long dần vào hoàn cảnh nguy hiểm.

Mức nước sông Cửu Long bị khô cạn. Trong nước không còn phù sa. Nước biển lấn tràn sâu vào nội địa lên đến 80-100 km. Toàn bộ môi trường sống của đồng bằng sông Cửu Long bị thay đổi. Phải chống ngập mặn, chống hạn hán, tìm nguồn nước ngọt. Con người, cây trồng, sinh vật,... bị đe doạ. Mức đe doạ đạt tới biên giới sinh tử. Hàng chục vấn đề trầm trọng đặt ra cho cư dân đồng bằng sông Cửu Long. Phải thay đổi cơ cấu cây trồng, thuỷ sản. Phải thay đổi cơ cấu cư dân.

Ở đồng bằng sông Hồng, tuy chưa có mức độ ngập mặn, nhưng một bức tranh xấu đang hiện ra mỗi ngày một ảm đạm hơn. Nếu thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Thác Bà vừa đưa lại nguồn điện, vừa giúp cắt lũ cho thủ đô Hà Nội, có làm cạn dòng chảy sông Hồng, nhưng chưa đến mức nguy hiểm, thì việc xây dựng thêm các thuỷ điện Sơn La, Lai Châu và cả trăm thuỷ điện khác trên lưu vực sông Đà và sông Lô đã làm cho đồng bằng sông Hồng rơi vào hoàn cảnh môi sinh bị đe doạ. Chưa kể đến trước đó, hàng chục thuỷ điện của Trung Quốc xây dựng ở thượng nguồn sông Hồng - là những chiếc thòng lọng đón chờ mọi cá thể trong toàn bộ hệ sinh thái châu thổ sông Hồng. Các dòng sông, mạch nước ngầm bị cạn. Kéo theo sự thay đổi của thuỷ mạch và toàn bộ hệ sinh thái ở châu thổ sông Hồng. Thuỷ mạch thay đổi, các vết nứt địa chất gia tăng khi phải hứng chịu hai khối nặng khổng lồ ở Hoà Bình và Sơn La, mỗi hồ nước nặng khoảng 10 tỷ tấn và 10 tỷ tấn ở các hồ nước khác. Khả năng gia tăng động đất là không tránh khỏi.

Ở miền Trung, thuỷ điện đưa đến các hậu quả không kém phần nguy hiểm, nhưng có thêm phần khác lạ. Với địa hình dốc từ Tây sang Đông, có nơi chỉ 40-50km, sông miền Trung ngắn nhưng có độ dốc lớn. Chính độ dốc lớn của sông miền Trung là nguyên do sinh ra chi chít những thuỷ điện nhỏ. Nơi đây, cứ cách khoảng 10-20 km, thậm chí 5 - 7 km đắp một chiếc đập là tạo nên một trạm thuỷ điện. Cụ thể như trên 24 km của sông Rào Trăng mà có đến 4 nhà máy thuỷ điện. Và đó cũng chính là nguồn cơn đưa đến tai hoạ lũ lụt và sụt lở đất nguy hiểm ngày một nhiều hơn.

Rõ ràng, ngoài tai họa biến đổi hệ sinh thái và môi trường sống ở cả 3 miền, thì tác động của thuỷ điện ở mỗi miền có những phương diện khác biệt. Thuỷ điện đưa đến cho đồng bằng sông Cửu Long trực diện nạn hạn hán, nạn ngập mặn, nạn thiếu nước ngọt - dẫn đến thay đổi cơ cấu kinh tế và cư dân. Còn ở đồng bằng châu thổ sông Hồng thì thuỷ điện mang đến sự thay đổi thuỷ mạch và tăng nguy cơ động đất. Và ở miền Trung, thì thuỷ điện tham gia đưa đến các cơn lũ lụt và sụt lở đất kinh hoàng.

2. Phải hiểu cho đúng khái niệm rừng tự nhiên

Loài người xuất hiện sau rừng tự nhiên. Đó là điều không phải bàn luận. Cho nên mỗi m2 rừng trước đây đều là rừng tự nhiên. Khi con người tiến vào rừng, đất nhà, đất nương rẫy của họ đều là rừng tự nhiên bị họ khai phá. Theo đánh giá, thì lượng rừng nguyên sinh của Việt Nam chỉ còn khoảng 0,25% (https://thanhnien.vn/thoi-su/rung-nguyen-sinh-con-nguyen-ven-cua-viet-nam-chi-con-025-1303817.html). Dù rằng theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, thì tính đến ngày 31/12/2019 diện tích đất có rừng của Việt Nam là 14,6 triệu ha (146.000 km2), trong đó rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha và rừng trồng là 4,3 triệu ha. Diện tích đất có rừng đủ tỷ lệ tính độ che phủ là 13,8 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 41,89% diện tích toàn quốc (https://nongnghiep.vn/cong-bo-hien-trang-rung-toan-quoc-nam-2019-d262978.html). Tỷ lệ che phủ này thấp hơn 2 nước láng giềng là Lào (58%) và Campuchia (47%). Ba tỉnh có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất, dẫn đầu là Nghệ An (784.340 ha), tiếp theo là Sơn La (588.343 ha) và Kon Tum (547.800 ha).

Theo thông tin của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cho biết, ở độ dốc 5-8 độ, dưới lượng mưa hàng năm 1.905mm thì trên 1 ha đất cà phê 2 tuổi sẽ bị trôi đi 69,2 tấn đất, 1 ha đất nương rẫy sẽ bị trôi đi 95,1 tấn đất, trên 1 ha đất trồng ngô sẽ bị trôi đi 105,7 tấn đất. Nhưng trên 1 ha đất rừng nguyên sinh chỉ bị trôi đi không quá 6 tấn đất, và 1 ha đất rừng tái sinh bị trôi đi 12 tấn đất. Những con số trên nói lên sự vô giá của rừng nguyên sinh trong bảo vệ đất. Đưa ra số liệu trên để thấy tại sao nạn sụt đất kinh hoàng đã xảy ra như trong các cơn lũ lụt thời gian vừa qua ở các tỉnh miền Trung. Đó là vì rừng tự nhiên bị tàn phá. Trong sự huỷ diệt rừng tự nhiên ở Việt Nam có vai trò không nhỏ của thuỷ điện.

3. Diện tích dành cho thủy điện nhỏ miền Trung tuyệt đại đa số lấy từ đất rừng tự nhiên

Bằng điện thoại cầm tay, với sự giúp đỡ của Google maps, không khó để nhận thấy các thuỷ điện nhỏ hoàn toàn nằm trong rừng tự nhiên. Hãy thử tự kiểm nghiệm các thuỷ điện A Lin B1, A Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 để thấy điều khẳng định này. Nghĩa là toàn bộ đất cấp cho thuỷ điện, trừ một phần nhỏ hồ tự nhiên có trước, đều hoàn toàn thuộc về diện tích rừng tự nhiên. Phần hồ mở rộng (nhiều lần) - hình thành sau khi đắp đập thuỷ điện - cũng đều là diện tích của rừng tự nhiên. Hơn thế nữa toàn bộ các đường giao thông đi đến các nhà máy thuỷ điện này đều làm trên đất rừng tự nhiên.

Một nguyên do khác nữa làm giảm rừng tự nhiên là việc lợi dụng xây dựng thuỷ điện để khai thác gỗ. Không chỉ trong diện tích rừng cấp cho thuỷ điện và làm đường giao thông, mà là ngoài các diện tích đó. Số lượng này không hề nhỏ.

4. Các nguy cơ mất an toàn trong xây dựng thủy điện nhỏ ở miền Trung

Khắp Bắc - Trung - Nam, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù có vốn pháp định từ vài tỷ cho đến vài trăm tỷ đều đổ xô đi làm thuỷ điện. Vốn cần ghi bao nhiêu cũng không khó. Nên các công ty tư nhân, công ty cổ phần vừa thành lập đều có thể làm thuỷ điện. Họ nhận được dự án, bất chấp năng lực thực tế, miễn là biết đi đúng đường. Và không ít các dự án đã được bán lại cho các chủ mới.

Không có các chuyên gia giỏi trong ngành thuỷ điện. Không khảo sát địa chất. Không nghiên cứu tác hại môi trường. Nhưng hồ sơ vẫn hoàn chỉnh, kín kẽ.

Còn thiết bị từ đâu? Đắp đập thành hồ. Mua thiết bị và thuê người lắp đặt là thành thuỷ điện. Người bán thiết bị đến lắp đặt xong thì về nước. An toàn hay không thì mặc nơi có thuỷ điện phải gánh chịu. Đây chính là mối nguy về sự không an toàn trong xây dựng thuỷ điện nhỏ.

Một mối nguy không an toàn khác chính là việc xây dựng đường giao thông đến thuỷ điện nhỏ. Các nhà đầu tư chỉ chú trọng đến chi phí. Họ chọn những cung đường ngắn nhất dù phải làm đường dưới sườn núi dốc đứng. Những con đường không đủ rộng. Họ bạt rừng để làm đường. Nguy cơ sạt lở ở các con đường dẫn đến thuỷ điện nhỏ rất cao, đầy ắp nguy hiểm. Các trận lũ lụt và sụt lở đất trong tháng 10/2020 ở miền Trung đã minh chứng điều đó.

5. Các hồ chứa nước của thủy điện nhỏ ở miền Trung không giúp giảm được lũ lớn

Sông Rào Trăng chỉ dài 26 km với lưu vực 141 km2 nhưng lại có đến 4 thuỷ điện A Lin B1 (42 MW), A Lin B2 (20 MW), Rào Trăng 3 (11 MW, lòng hồ 8,8 ha), Rào Trăng 4 (14 MW, lòng hồ 22,281 ha). Như vậy khoảng cách trung bình giữa các thuỷ điện chừng 8 km. Một khoảng cách quá dày đặc.

Thuỷ điện A Lin B1 có hồ chứa nước 24,8 triệu m3, lấy nước từ suối A Lin trong mạng lưới sông Sê Kông - Mekong sang Rào Trăng. Còn 3 thuỷ điện A Lin B2, Rào Trăng 3, Rào Trăng 4 lấy nước lưu vực sông Rào Trăng.

Để minh chứng các thuỷ điện nhỏ trên sông Rào Trăng không có khả năng làm giảm lũ trong mùa lũ, hãy lấy thí dụ về thuỷ điện Rào Trăng 4 trong đợt lũ vừa qua.

Đợt mưa vừa qua trong suốt một tuần ở khu vực này đo được từ 2200 - 2500 milimet. Nếu lấy mức thấp nhất là 2200 milimet thì lượng nước lưu vực sông Rào Trăng là 141km2 x 2200 milimet = 310,2 triệu m3. Còn tính cho cả huyện A Lưới sẽ là 1 232,7 km2 x 2200 milimet = 2 tỷ 711.940.000 m3.

Lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 là 22,281 ha. Theo quy trình xả lũ, mà Bộ Công thương duyệt cho thuỷ điện Rào Trăng 4 thì mực nước dâng bình thường 99,5 m; mực nước chết: 93,0m. Cụ thể như sau:

"1. Cao trình mực nước lũ của hồ chứa thuỷ điện Rào Trăng 4 trong mùa lũ ở điều kiện bình thường khi không có lũ không được vượt quá cao trình mực nước 99,5 m;

2. Quy định về chế độ vận hành

Căn cứ dự báo của cơ quan dự báo khí tượng thủy văn có thẩm quyền và quan trắc của Công ty Cổ phần Thủy điện Rào Trăng 4 về số liệu mưa, lưu lượng lũ vào hồ và mực nước hồ chứa, phương thức vận hành cửa van đập tràn như sau:

a) Nguyên tắc cơ bản: Duy trì mực nước hồ ở cao trình mực nước dâng bình thường 99,50m bằng chế độ xả nước qua các tổ máy phát điện và chế độ đóng mở cửa van đập tràn.

b) Trong trường hợp bình thường từ thời điểm lũ vào hồ đến khi đạt đỉnh, việc mở các cửa van đập tràn phải tiến hành lần lượt để tổng lưu lượng xả qua các tổ máy phát điện và đập tràn không được lớn hơn lưu lượng tự nhiên vào hồ tại cùng thời điểm.

- Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình đầu mối thủy điện Rào Trăng 4, chủ động đề phòng mọi bất trắc, với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng 500 năm; không để mực nước hồ chứa Rào Trăng 4 vượt mực nước lũ kiểm tra ở cao trình 101,27m" (http://itradetthue.gov.vn/Thong-tin/tid/Bo-Cong-Thuong-phe-duyet-Quy-trinh-van-hanh-ho-chua-thuy-dien-Rao-Trang-4/newsid/BFC2051C-A714-45FE-98F1-A89500859CF9/cid/-1).

Như vậy, trên 101,27m là hoàn toàn xả lũ. Lúc đó mực nước giữ thêm cho phép tối đa chỉ có: 101,27m - 99,5m = 1,77m. Lượng nước chứa thêm 222.810 m2 x 1,77m = 403.737 m3. Một con số vô cùng nhỏ nhoi so với 310,2 triệu m3, chỉ bằng 0,13%. Vậy làm sao dám gọi là "cắt lũ"?

Còn nếu tính ưu ái cho thuỷ điện Rào Trăng 4, rằng trước khi lũ, mực nước ở mức chết là 93,0m, thì mức nước giữ thêm cũng chỉ là 101,27m - 93,0m = 8,27m. Và lượng nước chứa thêm được so với mức chết là 222.810m2 x 8,27m = 1 triệu 842.638 m3. Vẫn là con số vô cùng nhỏ so với 310,2 triệu m3 (0,59%). Thuỷ điện nhỏ không giúp giảm được lũ là bởi thế.

Còn nếu ai đó nói rằng lòng hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 vào mùa lũ lớn hơn 22,281 ha, thì chính họ đã chỉ ra sự sai trái trong cấp phép. Lòng hồ là diện tích đất được cấp. Nó phải được tính toán ở mức nước cao nhất của hồ chứa nước. Đó chính là mức nước hồ ở độ cao ngang với đập.

Thí dụ cụ thể của thuỷ điện Rào Trăng 4 đã chỉ ra rằng thuỷ điện nhỏ không thể giúp gì được cho giảm lũ. Đó là chưa bàn đến ở đây, việc xả lũ làm tăng thêm thiệt hại to lớn cho người dân trong mùa lũ.

6. Hiểu thế nào cho đúng khái niệm "Cắt lũ"

Nếu cứ nghe theo những chuyên gia bảo vệ cho thuỷ điện nhỏ ở miền Trung thì thuỷ điện nhỏ có vai trò "cắt lũ" đến mức vĩ đại. Chẳng hạn như, họ đã đưa ra các con số rằng:

"Tại miền Trung, các hồ thủy điện cũng đã góp phần không nhỏ vào việc cắt lũ, như hồ Quảng Trị 21%, Hương Điền cắt tới 45% đỉnh lũ, hồ Bình Điền 42,3%, Sông Bung 4 cắt 42,7%, Đăk Mi 4 cắt 74,7%, đặc biệt trận lũ ngày 29/10, hồ Sông Tranh 2 cắt tới hơn 50%"…(http://la34.com.vn/tin-tuc/kinh-te/thuy-dien-nho-va-van-de-lu-lut-chuyen-gia-noi-gi/). Làm sao mà có thể cắt lũ đến mức 50%? 74,7%? Đây chỉ là trò chơi con số. Là cách hiểu khác nhau về 2 từ "cắt lũ". Bởi vì những người đưa ra chỉ số "cắt lũ" này dựa vào tỷ lệ lưu lượng nước đổ về hồ và lưu lượng nước xả qua đập thuỷ điện để ghi công cho thuỷ điện "cắt lũ". Chẳng hạn lưu lượng đổ về đầu hồ là 100 m3/s và lưu lượng xả qua đập thuỷ điện cuối hồ là 80 m3/s. Lúc đó, có lẽ những nhà điều tiết xả lũ cho rằng họ đã cắt được lũ 20m3/s. Và tỷ lệ "cắt lũ" là 20/100 = 20%?

Thực ra hồ chứa nước của thuỷ điện không giữ lại 20% lượng nước lũ trong thí dụ trên. 20 mnước đó chỉ bị lưu giữ chậm lại, và chỉ 0,25 giây sau nó sẽ đi qua cửa xả của đập thuỷ điện. Nghĩa là sau 1,25 giây thì toàn bộ 100 m3 nước đi qua đập thuỷ điện, không giọt nào lưu lại hồ. Nước lũ chỉ bị dồn lại trước đập thuỷ điện và thông qua đập thuỷ điện với độ trễ. Giống như dòng người ở trạm soát vé. Khi lũ tiếp tục tràn về, nước dâng lên đến mức cho phép tối đa thì phải xả lũ đúng bằng lượng nước đổ về hồ, nếu không nước sẽ tràn qua đập và có thể gây vỡ đập. Cách tính "cắt lũ" như trên gây ra hiểu nhầm là hồ thuỷ điện giữ lại được một lượng nước đến 50%, 74,7% toàn bộ lượng nước lũ.

Bởi thế, phải hiểu cho đúng khái niệm "cắt lũ". Như thí dụ của thuỷ điện Rào Trăng 4 nêu ở trên, thì thực tế hồ thuỷ điện Rào Trăng 4 chỉ giữ thêm được có 1,77m chiều cao mặt hồ nước, tương đương với 403.737 m3. Các "hiệp sỹ" bảo vệ thuỷ điện nhỏ, trớ trêu thay tự mâu thuẫn với chính họ. Họ biện luận về "cắt lũ" giúp dân khi lũ không đủ lớn. Khi lũ lên cao thì đột ngột ồ ạt xả lũ để bảo vệ đập, rồi họ lại thanh minh là không làm cho lũ trầm trọng, vì xả đúng lượng nước đổ về đầu hồ. Chỉ có người dân địa phương nơi vùng bị xả lũ mới biết được việc xả lũ của thuỷ điện đã đẩy họ vào thảm cảnh bi đát như thế nào!

7. Đừng so sánh với châu Âu

Có người vin vào số lượng thuỷ điện nhỏ ở châu Âu để cổ suý cho thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam. Như ngay tại phần đầu đã lưu ý, thuỷ điện là năng lượng quý giá trong trường hợp nó được sử dụng một cách khoa học. Thuỷ điện nhỏ được xây dựng và khai thác ở châu Âu trong một thực tế khác hoàn toàn với Việt Nam, dù quy trình trên giấy có vẻ gần giống nhau. Để nói lên sự khác biệt giữa châu Âu và Việt Nam trong cách làm thuỷ điện nhỏ, thì trước hết là phải nói đến quy trình và sự tuân thủ quy trình. Ở Việt Nam không có sự tuân thủ quy trình như ở châu Âu.

Không ai chống thuỷ điện nhỏ khi nó được khai thác một cách khoa học. Nhưng ở Việt Nam, thuỷ điện nhỏ đang tàn phá rừng, làm tăng thêm sụt lở, làm trầm trọng thêm lũ lụt, làm thay đổi môi sinh. Bởi vì việc xây dựng thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam thoát ra ngoài tầm kiểm soát. Và không có cách nào để kiểm soát được trong cơ chế hiện nay.

Khi không kiểm soát được, thì cách tốt nhất là dừng.

8. Thủy điện đã tới hạn

Theo thống kê của Bộ Công thương, đến cuối năm 2018 cả nước có 818 dự án thuỷ điện đã được phê duyệt với tổng công suất 23.182 MW. Hiện có 385 công trình thuỷ điện đang vận hành với tổng công suất 18.564 MW. 143 dự án đang xây dựng có công suất 1.848 MW. 290 dự án đang nghiên cứu có tổng công suất 2.770 MW. Tổng công suất điện toàn quốc năm 2018 đạt khoảng 48.000 MW. Như vậy thuỷ điện chiếm khoảng 38,675% công suất lắp đặt. Kế hoạch đến năm 2030 của thuỷ điện là 25.400 MW (http://nangluongvietnam.vn/news/vn/dien-luc-viet-nam/bo-cong-thuong-dang-nghien-cuu-dau-tu-290-du-an-thuy-dien.html).

Nhu cầu về điện tăng rất nhanh do đòi hỏi phát triển của đất nước. Tổng công suất điện đã lắp đặt của cả nước năm 2019 đạt 54.880MW. Phải dữ liệu tăng trưởng điện ở mức độ từ 10-12% hàng năm. Nhiệt điện than cần phải hạn chế do mức độ ô nhiễm. Còn thuỷ điện đã đạt mức tới hạn. Nếu tính cả 143 dự án đang triển khai thì tổng công suất của thuỷ điện đạt 20.412 MW. Nếu tiếp tục triển khai hết 290 dự án đang nghiên cứu cũng chỉ cho thêm 2770 MW. Tiếp tục theo kế hoạch đến năm 2030 để đạt 25.400 MW thì cũng chỉ tăng thêm 2.218 MW. Nghĩa là không đủ đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng điện trong 1 năm. Bởi vậy, không nên phát triển các dự án thuỷ điện mới nữa, và dừng hoàn toàn các dự án thuỷ điện nhỏ mà chưa triển khai, nhất là tại khu vực miền Trung.

Thay vào đó là điện mặt trời và điện gió. Tính đến tháng 6/2019, đã có 89 nhà máy điện gió và điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất 5.038 MW, chiếm khoảng 9,18% tổng công suất điện quốc gia. Theo kế hoạch, đến 31/12/2019 sẽ có thêm khoảng 1.000 MW năng lượng tái tạo hoà vào lưới điện quốc gia. Phát triển mạnh điện mặt trời và điện gió là hướng chiến lược chủ đạo dài lâu của Việt Nam.

Vì rừng bị tàn phá, đồng bào miền Trung không chỉ đối mặt với lũ lụt ngày càng hung dữ, mà còn phải sống trong nơm nớp lo âu của sụt lở đất kinh hoàng. Trong số các kẻ thù hiểm ác của rừng, phải kể đến: Lâm tặc, sự di dân, sự bành trướng đô thị, sự phá rừng trồng cây lương thực và cây công nghiệp, sự xâm chiếm của các dự án, và thuỷ điện. Cách tốt nhất giúp cho đồng bào miền Trung bớt lũ và tránh sụt lở đất là bảo vệ rừng, trồng thêm rừng, và thay thế thuỷ điện bằng năng lượng tái tạo.

LTSMột trong những nhiệm vụ được Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2020-2025 xác định là phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó vùng Hoàng Mai - Quỳnh Lưu gắn với vùng Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An được xem là vùng kinh tế trọng điểm mang nhiều kỳ vọng của tỉnh. Theo đó, trong tương lai không xa, Thị xã Hoàng Mai sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ nhờ các nội lực cũng như ngoại lực tác động, trở thành cực tăng trưởng của tỉnh.

Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Tổ phó Tổ Tư vấn kinh tế - xã hội của Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An về những nhận định, đánh giá, góp ý cho định hướng phát triển của Thị xã Hoàng Mai, dưới góc nhìn của một chuyên gia kinh tế.

*   *

*

 

PV: Thưa PGS.TS. Trần Đình Thiên, là một người con của quê hương Hoàng Mai, luôn theo sát tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã, ông có đánh giá như thế nào về tình hình phát triển của Hoàng Mai trong những năm gần đây?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Hoàng Mai thật sự khởi sắc, đúng theo nghĩa "đổi đời" kể từ khi tách ra khỏi huyện Quỳnh Lưu để thành lập Thị xã năm 2013. Từ một điểm xuất phát rất thấp - "thuần nông" nghèo và khó ở "địa đầu xứ Nghệ", chỉ sau 7 năm, diện mạo vùng đất này đã thay đổi sâu sắc. Trong 7 năm, nhờ động lực đô thị hóa mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thị xã, đạt bình quân hơn 14%/năm, cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh. Giá trị tăng thêm của Hoàng Mai cũng có sự nhảy vọt, hiện đạt hơn 61 triệu đồng/người, gần gấp rưỡi mức bình quân cả tỉnh. Đây thực sự là một kết quả "ngoạn mục", mang tính "đột phá".

Gắn liền với những thành tích đó là những thay đổi sâu sắc về cơ cấu - hình hài đô thị lộ diện, các cơ sở công nghiệp - du lịch ít nhiều bề thế được xây dựng, khẳng định một tầm và thế phát triển mới. Nhà máy Tôn Hoa Sen, Bánh kẹo Hải Châu, Khách sạn Mường Thanh - Hoàng Mai Luxury, Bệnh viện Đa khoa tư nhân Quang Khởi, v.v. là những mốc đánh dấu sự chuyển mình sang đẳng cấp phát triển cao hơn của Thị xã. Nền nông nghiệp "truyền thống" trình độ thấp, thống trị trước đây bắt đầu có động thái "nhường sân" cho một nền nông nghiệp mới: với Quỳnh Liên dẫn đầu, Hoàng Mai đang bắt nhịp vào quỹ đạo "nông nghiệp sạch - công nghệ cao", vươn ra thị trường ngoại tỉnh với các sản phẩm chất lượng, có khả năng giúp người nông dân thoát nghèo và làm giàu.

Mảnh đất địa đầu xứ Nghệ đang chuyển mình và vươn mình. Những gì đạt được trong 7 năm qua là rất ấn tượng, đáng được ghi nhận và cần được đúc kết để rút ra những bài học tích cực. Đà và thế phát triển của Hoàng Mai, "cực tăng trưởng phía Bắc của Nghệ An", đã được xác lập. Với đà và thế đó, có đủ tự tin để nói với Hoàng Mai, "phía trước là bầu trời".

Tuy nhiên, ở mặt khác của quá trình phát triển, cũng cần nhìn nhận thẳng thắn rằng đó chỉ mới là bước đầu, những thành tích đạt được tuy rất ấn tượng, song vẫn còn khiêm tốn, còn xa và còn gian truân lắm để Hoàng Mai khẳng định chân dung đô thị đúng tầm và xứng tầm. Cần hiểu rằng việc đạt được tốc độ tăng trưởng cao "đột biến" của Thị xã 7 năm qua một phần quan trọng là do xuất phát điểm thấp. Vẫn chưa lộ diện bóng dáng những nhà đầu tư chiến lược, những con đại bàng đích thực có khả năng tạo đột biến, đưa Hoàng Mai vượt lên đẳng cấp phát triển mới.

Đô thị Hoàng Mai hiện vẫn còn ngổn ngang mặt bằng. Khung khổ quy hoạch và chân dung phát triển chưa định hình rõ. Dân cư Hoàng Mai cơ bản vẫn chưa thoát khỏi "gốc gác" nông dân để thành "thị dân" đúng nghĩa. Lực lượng doanh nghiệp "bản địa" hãy còn rất yếu, v.v. Chưa kể sự thiếu thốn về nguồn lực phát triển, trong khi vẫn dư thừa rào cản và trở ngại thể chế.

Nghĩa là với Hoàng Mai, phía trước vẫn còn đầy khó khăn, thách thức.

PVNhư ông đánh giá thì mặc dù trong 7 năm qua, Hoàng Mai đã có những khởi sắc, "đổi đời" nhưng rõ ràng vẫn chưa đạt được kỳ vọng trở thành một trong những cực tăng trưởng, vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, vậy nguyên nhân do đâu, thưa PGS?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Đâu có dễ và nhanh đạt được một kỳ vọng phát triển lớn lao như vậy! Hoàng Mai cũng "không vội được đâu". Vả lại, Hoàng Mai mới được "chọn" để xây dựng thành "cực tăng trưởng" của Tỉnh chỉ cách đây 7 năm, khi lãnh đạo Tỉnh tạo cơ hội để Hoàng Mai tiến "vượt cấp" lên Thị xã.

Đưa Hoàng Mai lên Thị xã, xây dựng thành cực tăng trưởng của Nghệ An không phải là một mục tiêu "tùy hứng" mà nằm trong ý đồ chiến lược quốc gia - phát triển khu vực "Nam Thanh - Bắc Nghệ" thành địa bàn phát triển trọng điểm, "cực tăng trưởng" của cả vùng Bắc Trung bộ.

Tại địa bàn "Nam Thanh - Bắc Nghệ", cho đến nay, Khu Kinh tế Nghi Sơn (Nam Thanh Hóa) đã khẳng định vai trò quan trọng và vị thế chiến lược của mình bằng hàng loạt dự án đầu tư lớn. Hàng chục tỷ đô la đã được đầu tư vào đây. Khu Kinh tế Nghi Sơn chưa "bung hết sức", song đã tạo bùng nổ phát triển, bắt đầu định hình chân dung phát triển và đóng vai trò là động lực tăng trưởng mạnh của Thanh Hóa.

Còn Hoàng Mai, "đi sau", tuy đã đạt được thành tích phát triển "ấn tượng" như đã nêu, song so với "nửa" Nam Thanh của cụm phát triển Nam Thanh - Bắc Nghệ, hãy còn "tụt hậu" xa. Tôi nói tụt hậu theo đúng nghĩa đen của từ.

Nhận định như vậy không phải để chê bai mà là để nhận diện chính xác một thực trạng đáng suy nghĩ, đáng suy xét nghiêm túc cả về phía Nghệ An lẫn Trung ương.

Nguyên nhân của thực trạng đó có nhiều. Khách quan có, chủ quan có.

Nghi Sơn có những lợi thế hiển nhiên. Cảng tốt, mặt bằng đẹp. Nhưng quan trọng nhất là lãnh đạo và người dân Thanh Hóa quyết tâm cao độ, đã "quyết chiến" bằng sức mạnh tổng hợp. Trung ương nhận thấy điều đó và thêm sự hỗ trợ. Và Nghi Sơn thực sự bùng dậy, tạo bứt phá trước Hoàng Mai khá lâu, nhờ đó, chiếm được "tiên cơ".

Hoàng Mai đi sau, có những lý do "ngoài tầm với". Ví dụ việc Hoàng Mai được giao "chức trách" cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy Xi măng Nghi Sơn. Hoàng Mai lại "gánh" mỏ đá như một trọng trách quốc gia. Mà đó là hai nguồn cung cấp ô nhiễm môi trường cho Hoàng Mai. Tôi cho điều đó giải thích tại sao Nghệ An nỗ lực cao độ để thu hút đầu tư lớn vào Hoàng Mai hàng mấy chục năm mà kết quả cho đến nay vẫn cứ èo uột như chưa bắt đầu.

Có một nguyên nhân mang tính chiến lược: Hoàng Mai chưa định hình được lợi thế chiến lược của mình gắn với tầm nhìn phát triển hiện đại. Thiếu cái này thì chưa biết rõ mình và khó thuyết phục nhà đầu tư, khó thuyết phục các cấp lãnh đạo cao hơn mà định hướng quy hoạch và các cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp.

Tất nhiên, còn phải mổ xẻ kỹ hơn hơn nữa, nhất là các lợi thế "tĩnh" và "động". Tôi là người Hoàng Mai, cảm nhận sâu sắc rằng Hoàng Mai có những tiềm năng lớn và lợi thế đặc sắc lắm. Nhìn ra cho trúng những cái này sẽ có cơ sở để "dựng" chân dung phát triển đúng và đề xuất cơ chế, chính sách phát triển phù hợp.

PV: Vậy theo PGS.TS, Hoàng Mai cần "dựng chân dung phát triển" như thế nào cho đúng và cho trúng để đạt được kỳ vọng?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Đầu tiên phải là xử lý các mỏ đá gây ô nhiễm. Muốn Hoàng Mai trở thành cực tăng trưởng đúng nghĩa thì phải dọn dẹp được những thứ này. Nếu không, sẽ khó mà thu hút được nhà đầu tư lớn tử tế nào vào Hoàng Mai.

Thứ hai phải xác định cho đúng quan hệ chức năng giữa Hoàng Mai và Nghi Sơn. Bắc Nghệ mà lặp lại cách phát triển của Nam Thanh thì Bắc Nghệ tiếp tục "đi sau", còn Nam Thanh cũng bị thiệt hại - do không có sự phối hợp, liên kết để tạo sức cộng hưởng. Tôi nghĩ Hoàng Mai, với những lợi thế và điều kiện phát triển của mình, nên hướng mạnh vào mảng dịch vụ, du lịch. Xây dựng Hoàng Mai thành đô thị biển hiện đại, lấy dịch vụ đẳng cấp cao làm trục chủ đạo, vì thế, cần là định hướng chính, chi phối cách tiếp cận phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là công nghiệp.

Cần quy hoạch và thiết kế một đô thị Hoàng Mai đi sau nhưng vượt trước về các chuẩn mực phát triển hiện đại ngay từ đầu.

Thứ ba, Hoàng Mai cần thiết kế lại hệ thống du lịch - nghỉ dưỡng, gắn với việc đẩy mạnh xu thế phát triển nông nghiệp công nghệ cao - sạch và thế mạnh hải sản. Lợi ích phát triển của đa số người dân Hoàng Mai là ở hướng phát triển này.

PV: Vậy để Hoàng Mai trở thành đô thị "đi sau vượt trước về các chuẩn mực hiện đại" như ông đã nói thì vai trò của các cơ quan cấp tỉnh như thế nào, thưa PGS.TS?

PGS.TS. Trần Đình Thiên:

Tôi nghĩ đối với Hoàng Mai, cấp Tỉnh đóng vai trò định hình, định hướng, tạo điều kiện và cung cấp sự hỗ trợ phát triển ở cấp độ ưu tiên cao bậc nhất trong toàn bộ chương trình phát triển của Nghệ An trong giai đoạn tới. Nếu bỏ qua cách nói triết học về "vai trò quyết định của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng", trong trường hợp Hoàng Mai, rõ ràng các cơ quan cấp tỉnh đóng vai trò quyết định. Cấp Thị xã chủ yếu là "thừa hành", ít quyền, ít nguồn lực và tầm nhìn phát triển bị hạn chế.

Theo nghĩa đó, mấy cái gọi là đột phá nêu ở trên phải là đột phá từ tỉnh. Đồng thời, theo logic hành động, cần thêm một đột phá nữa thì may ra mới đủ: cải thiện mối quan hệ Tỉnh - Thị xã theo hướng tạo cơ hội và điều kiện cho Thị xã chủ động nhiều hơn, tức là có quyền chủ động mạnh hơn, có thêm nguồn lực, nhờ đó, sẽ sáng tạo hơn và chịu trách nhiệm cao hơn.

Khi đó thì có thể hy vọng Hoàng Mai sẽ bay lên như tất cả chúng ta mong đợi.

Xin cảm ơn PGS.TS về cuộc trò chuyện!

HỒ THỦY (Thực hiện)

(*): Đầu đề do Phóng viên đặt

Trần Thị Bình

Phim tài liệu khoa học là một nguồn tài liệu quý giá, mang tính chân thực, không hư cấu, không dàn dựng, khách quan, khoa học, hiện thực cuộc sống được phản ánh một cách trung thực nhất như nó vốn có. Đặc biệt, những thước phim tài liệu khoa học có tác động và ý nghĩa rất lớn trong giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các trường đại học, cao đẳng nói chung và trường Đại học Kinh tế Nghệ An nói riêng. Sử dụng phim tài liệu khoa học phù hợp trong bài giảng không chỉ cung cấp kiến thức cho sinh viên mà còn góp phần tạo hứng thú, nâng cao hiệu quả bài học, bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng để sinh viên tự nâng cao ý thức trách nhiệm của mình trước sự phát triển của đất nước.

Tuy nhiên dưới góc nhìn chủ quan, bằng những tìm tòi, trăn trở trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, tác giả đưa ra một số ý tưởng trong việc sử dụng các đoạn phim tài liệu khoa học nhằm làm cho bài giảng cuốn hút hơn ở số nội dung của môn học như sau:

  Thứ nhất, chỉ xem phim tài liệu khoa học là một phương tiện hỗ trợ giúp bài giảng cuốn hút, sinh động hơn, chứ không phải là cung cấp kiến thức tuyệt đối. Để giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam lôi cuốn, khoa học, hiệu quả, giảng viên phải sử dụng nhiều phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực của người học trước yêu cầu đổi mới giáo dục đại học hiện nay như: dạy học kiến tạo, dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, kỹ thuật động não, phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy cùng với các phương tiện dạy học hiện đại khác như: máy chiếu, projecter và đặc biệt đối với môn học này phải tạo điều kiện đưa sinh viên đi tham quan các viện bảo tàng, các căn cứ địa cách mạng tiêu biểu, nhân chứng lịch sử. Giảng viên không nên lạm dụng trình chiếu ở mỗi bài, mỗi giờ lên lớp, làm như vậy dẫn đến nhàm chán, chỉ nên sử dụng trong trường hợp mà ở đó bộ phim tư liệu khoa học được quay trên bối cảnh lịch sử diễn ra sự kiện cách mạng đó.

Thứ hai, giảng viên phải nắm vững nội dung kiến thức bài giảng để lựa chọn những thước phim phù hợp, sát với nội dung, mục tiêu của bài. Đồng thời tránh nhầm lẫn giữa giảng dạy môn lịch sử Việt Nam và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối với giảng dạy đường lối, giảng viên chỉ lựa chọn những bộ phim điển hình tương ứng với nội dung phù hợp, tiêu biểu để chứng minh cho chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam ở giai đoạn đó. Tránh sa đà, trình chiếu các sự kiện, diễn biến của các cuộc chiến tranh (tập trung ở 3 chương đầu), mà không làm rõ chủ trương, đường lối của Đảng ta ở mỗi thời điểm lịch sử.

Chẳng hạn, với nội dung: "Lãnh đạo xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)", cụ thể để giảng mục: "Tình hình Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám", với nội dung: "Khó khăn chồng chất " [1, tr 78] thì ở buổi học trước giảng viên yêu cầu sinh viên sưu tầm các tư liệu, hình ảnh minh họa thể hiện được nạn đói, nạn dốt, ngân quỹ quốc gia trống rỗng là những hiểm họa đối với chế độ mới. Đồng thời, hướng dẫn sinh viên vào trang Website: https://www.youtube.com, tìm kiếm "Nạn đói khủng khiếp năm 1945", xem phim tài liệu "Những năm tháng không thể lãng quên" trên kênh VTV1 hay "Sao tháng Tám" - Là những bộ phim phản ánh thành công những ngày sôi sục trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với nạn đói kinh hoàng dẫn đến 2 triệu người chết. Từ đó sinh viên hiểu được cuộc sống lầm than của dân ta, mà không trang viết nào tái hiện chân thực bằng, mỗi thước phim là hình ảnh chân thực nhất về thời điểm lịch sử đương thời, chắc hẳn khi xem phim mỗi sinh viên sẽ động lòng trắc ẩn, biết quý trọng những đồng tiền, tấm áo khi đang sống trong vòng tay của cha mẹ. Từ thực tế này, giảng viên chuyển sang giảng mục: Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, sinh viên sẽ hiểu bài nhanh và nắm vững nguyên lý: mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều bắt nguồn từ chính thực tiễn.

* Ở nội dung 4: "Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 1954 - 1975" [1, tr86], cụ thể mục kết quả: "Trong 9 tháng (4 đến 12/1972) chống chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến đấu, nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, lập nên trận "Điện Biên Phủ trên không" đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ [1, tr 108].  Để cho sinh viên thấy chiến thắng là sự kiện lịch sử trọng đại, giáng một đòn quyết định vào cố gắng cuối cùng của Mỹ, buộc chúng phải ký Hiệp định Pari về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo ra bước ngoặt lịch sử làm tiền đề để đi đến thắng lợi trọn vẹn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giảng viên có thể sử dụng bộ phim tài liệu "Mỹ ném bom bắn phá miền Bắc lần 2 năm 1972" đồng thời hướng dẫn sinh viên có thời gian nên xem thêm bộ phim "Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ" (dài tập), bởi nếu chỉ tố cáo tội ác của Mỹ, ca ngợi chiến thắng bằng lời nói, kể chuyện ắt hẳn chưa đủ sức minh chứng sự hào hùng và cả mất mát, thiệt hại về người và của, của quân và dân ta, mà cần phải lồng hình ảnh vào để sinh viên chứng kiến tội ác của Mỹ với những máy bay B52 bay trên bầu trời Hà Nội bắn phá xuống các mục tiêu quân sự, trường học, bệnh viện,… vừa thấy được tinh thần chiến đấu của quân dân miền Bắc, đặc biệt là các cảm tử quân "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" bắn trả máy bay Mỹ.

Đây là một trong những chiến thắng mang tầm vóc lịch sử ở thế kỷ XX, chứng minh hùng hồn chân lý: một nước đất không rộng, người không đông nhưng biết đoàn kết đấu tranh cho độc lập dân tộc, hòa bình dân chủ và chủ nghĩa xã hội… thì có thể chiến thắng mọi kẻ thù, dù chúng có các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại nhất.

Thông qua bộ phim giúp sinh viên tự thấu hiểu được rằng: Để có được nền độc lập, hòa bình như hôm nay, thì đã có rất nhiều cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh, thế hệ trẻ cần phải hiểu được ý nghĩa, giá trị của hòa bình trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do. Thông qua bộ phim này, gửi đến sinh viên thông điệp mà không cần phải thuyết giáo nhiều: Phải không ngừng nỗ lực, cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc biệt, đừng bao giờ hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta…, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay (như lời của một bài hát).

Thứ ba, sử dụng phim tài liệu khoa học phải có địa chỉ khai thác tin cậy bởi hiện nay có nhiều mạng xã hội đăng tải tràn lan, thiếu cơ quan quản lý, kiểm duyệt về các nội dung nếu không hướng dẫn sinh viên rất dễ chọn nhầm. Đồng thời không lạm dụng, trình chiếu kéo dài thời gian trong bài giảng, giảng viên hướng dẫn cho sinh viên rõ các bộ phim tài liệu khoa học chính thống được kênh truyền hình VTV1 đặt hàng và công chiếu (trang web VTV1: Phim tài liệu) hoặc Đài Truyền hình Vĩnh Long (trang web: THVL/ Phim tài liệu), đồng thời giảng viên cũng nêu rõ, hiện nay lợi dụng vào sự phát triển công nghệ truyền hình, tự do báo chí, ngôn luận nhiều trang mạng lợi dụng nói xấu Đảng, chế độ, vì vậy sinh viên cần phải có nhận thức, tầm nhìn, bản lĩnh chính trị để loại trừ, không truy cập các trang mạng đó.

Thứ tư, không chỉ sử dụng hình thức trình chiếu trên lớp mà giảng viên hướng dẫn sinh viên xem phim ở nhà, phim có liên quan đến bài học mới, để kiểm tra ý thức tự giác, khả năng nhận thức và tầm mong muốn hiểu biết chủ trương, đường lối của Đảng và kết quả, nguyên nhân đạt được.

Chẳng hạn, khi giảng "Đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng trong thời gian qua", đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong phần này, giảng viên có thể sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau để làm bật quan điểm của Đảng. Tuy nhiên để sử dụng những thước phim tư liệu khoa học, giảng viên trước đó phải yêu cầu sinh viên đọc kỹ và tìm hiểu trước nội dung này nhằm phát huy tính tích cực, tự giác của sinh viên. Đồng thời hướng dẫn sinh viên xem trước những bộ phim chính sau:

1. 70 năm ngoại giao Việt Nam (từ 1945 - 2015).

2. Ngoại giao Việt Nam 2015 - Lịch sử và hội nhập (Vietnam Diplomacy 2015: History and Integration).

3. Mục tiêu đối ngoại của Việt Nam trong năm 2017 của Truyền hình Thông Tấn - VNEWS.

Sinh viên xem những bộ phim này, chính là sự xâu chuỗi hệ thống bằng những con số, sự kiện sống động chứng minh cho việc đường lối đối ngoại của Đảng ta đi liền với thành tựu đạt được từ 1945 cho đến nay.

Nhưng để kiểm tra thái độ học tập, lĩnh hội của sinh viên như thế nào, giảng viên đến lớp sẽ sử dụng những câu hỏi có liên quan tiêu biểu trong bộ phim như sau:

Trong bộ phim tài liệu "70 năm ngoại giao Việt Nam", đồng chí Phạm Bình Minh - Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã rút ra phương châm và bài học lớn nào trong đường lối đối ngoại của Đảng? Để gợi ý cho sinh viên, giảng viên chiếu lại đoạn phim đó nhưng tắt tiếng để xem sinh viên nhớ, hiểu được mức độ nào, sau khi sinh viên trả lời xong, giảng viên chiếu lại để sinh viên và cả lớp xem. Đồng thời, nhận xét câu trả lời của sinh viên, công bố điểm để tạo động lực, niềm tin cho sinh viên học tập, nghiên cứu đối với bất kỳ giờ học, môn học nào.

Trên cơ sở đã giới thiệu sinh viên xem những bộ phim trên, đến lớp giảng viên giảm thuyết trình, chủ yếu phát vấn sinh viên và củng cố, nhắc lại những mốc đường lối ngoại giao và kết quả đạt được quan trọng của Đảng ta. Ví dụ như trong phần thành tựu của 30 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại, nói nhiều đến quan hệ ngoại giao Việt Nam với các nước láng giềng, trong đó bàn nhiều đến quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, giảng viên khắc sâu, khẳng định thêm: Đối với các vấn đề biên giới lãnh thổ, Việt Nam cần tiếp tục kiên trì nỗ lực giải quyết thông qua con đường đàm phán ngoại giao, tham gia vào việc xây dựng các cơ chế đàm phán đa phương, cần xác định đây là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và toàn xã hội. Về quản lý tranh chấp và ngăn ngừa xung đột trên biển Đông, hai bên cần có thái độ kiềm chế, tôn trọng lẫn nhau, không làm phức tạp hóa vấn đề, không sử dụng vũ lực, cần giải quyết tranh chấp thông qua biện pháp hiệp thương hữu nghị, không để vấn đề này ảnh hưởng tới quan hệ hai nước, đến tình cảm nhân dân hai nước, gây mất lòng tin đối với nhau. Hai bên cần có sự thông tin đầy đủ và kịp thời cho nhau nhằm xử lý thỏa đáng các vấn đề nảy sinh. Sau đó giảng viên có thể sử dụng thêm câu hỏi để chốt bài: Trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay? Buộc sinh viên phải trả lời bằng chính suy nghĩ của mình: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn luôn mở rộng tầm hiểu biết, không ngừng phấn đấu, nỗ lực học tập, tranh thủ học ngoại ngữ, tin học; chủ động tự tìm và tạo việc làm sau khi ra trường. Nhận thức rõ ràng về những cơ hội, thách thức, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.

Trên đây là những suy nghĩ chủ quan của tác giả trong quá trình tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy các môn Lý luận Chính trị nói chung và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Tác giả nghĩ, việc sử dụng phim tài liệu khoa học nếu hợp lý sẽ là một phương tiện, công cụ trực quan sinh động, hỗ trợ cho bài giảng hấp dẫn hơn, góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển năng lực, tư duy, góp phần kích thích, tạo hứng thú, động lực cho người học. Tuy nhiên sử dụng bộ phim nào vào nội dung gì, thời lượng chiếu bao nhiêu, phụ thuộc vào năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn của từng giảng viên. Vấn đề cốt lõi là làm sao trong quá trình giảng dạy đường lối, cương lĩnh chính trị của Đảng, giảng viên không rơi vào tuyên truyền, sinh viên không "quay lưng" lại với môn học, mà gây hứng thú học tập trong sinh viên để từ đó các em yêu thích môn học. Nếu làm được điều đó chắc chắn rằng các em sẽ hiểu và đặt niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tự hào dân tộc, để từ đó xác định cho mình lý tưởng, trách nhiệm của bản thân đối với Tổ quốc, dân tộc và với chính bản thân mình.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,  Hà Nội  - 2019.

2. Tổng kết công tác vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh (Phụ lục tình hình trang bị xe ô tô và tổn thất), Tổng cục Hậu cần, 1984.

3. youtube.com/watch.

4. http://text. 123doc.org.document.

 

Lê Thùy Linh

 

Những yếu tố tác động đến kinh tế thủ công nghiệp Nghệ An thế kỷ XV - XVIII

Thế kỷ XV, lãnh thổ Việt Nam được mở rộng, biên giới Đại Việt - Chămpa được đẩy lùi tới đèo Cù Mông sau thắng lợi của vua Lê Thánh Tông trước vua Chămpa Bàn La Trà Toàn(1). Nghệ An thuộc Hải Tây đạo, được coi là một trong những vùng đất quan trọng, là miền đất phên giậu phía Nam của Đại Việt(2). Không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, quân sự, vị trí địa lý Nghệ An tạo điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi, buôn bán giữa các vùng, đặc biệt là trong thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, khi mối giao thương liên vùng trở nên thường xuyên và phát đạt ở Đại Việt. Từ đó trực tiếp tác động đến sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp - bộ phận kinh tế tạo ra nguồn cung các thương phẩm cho hoạt động thương nghiệp. 

Đặc điểm địa hình cùng sông ngòi, bờ biển, các cửa cảng và tài nguyên khoáng sản là những thuận lợi căn bản cho các hoạt động thương nghiệp và thủ công nghiệp. Bờ biển Nghệ An dài 82 km, từ Mũi Xước ở Đông Hồi huyện Quỳnh Lưu đến Cửa Hội. 6 cửa lạch ven biển thuộc các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc và Cửa Lò là lạch Cờn, lạch Quèn, lạch Thơi, lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội. Ngoài ra, còn có các cửa sông Lam như cửa Sót, cửa Nhưỡng và Vũng Áng thuộc biển Hà Tĩnh(3). Theo đó, các nghề thủ công phục vụ cho đời sống kinh tế biển, gắn bó chặt chẽ với biển hình thành, điển hình là nghề đóng thuyền.

Kinh tế nông nghiệp Nghệ An có nhiều biến động trong các thế kỷ XV - XVIII. Dưới thời Lê, việc khẩn hoang được đẩy mạnh: đội quân do Đinh Lễ, Bùi Bị chỉ huy đã khai hoang được hơn 30 mẫu đất tại nơi đóng quân ở Tùng Sơn, Hương Sơn nhằm tạo thêm nguồn lương thực nuôi quân(4). Theo ghi chép của Le Breton trong An Tĩnh cổ lục, nhiều làng mới được hình thành dọc miền duyên hải giữa Cửa Lò và Cửa Hội. Vị Tổng tri thời Lê Thái Tông (1433 - 1442) là Lê Khôi đã tập hợp tù binh chiến tranh khai khẩn đất hoang lập nên 5 làng mới là Quảng Dụ, Nghĩa Liệt, Vệ Chính, Khánh Sơn, Triều Khẩu(5). Năm 1481, vua Lê Thánh Tông cho lập đồn điền, cả nước có 43 sở đồn điền, ở Nghệ An có sở Anh Đô, Diễn Châu, Hà Hoa(6). Kinh tế nông nghiệp phát triển ổn định trong thế kỷ XV, tuy nhiên, sang thế kỷ XVI, XVII, XVIII, do ảnh hưởng bởi nội chiến Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn phân tranh, khởi nghĩa nông dân ở thế kỷ XVII - XVIII, nông nghiệp Nghệ An đình đốn nghiêm trọng, dân đói liên miên, nhà nước phải nhiều lần chẩn cấp. Tuy nhiên, đan xen trong những thời gian khó khăn đó, vẫn có những thời điểm Nghệ An được mùa như một số năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XVIII(7). Trong điều kiện thủ công nghiệp chưa hoàn toàn tách khỏi kinh tế nông nghiệp, sự bấp bênh của nông nghiệp khó có thể tạo được nền tảng vững chắc để thúc đẩy kinh tế thủ công nghiệp phát triển ổn định. Theo đó, thủ công nghiệp ở Nghệ An chủ yếu phát triển dựa trên lợi thế tự nhiên.

Bên cạnh đó, những chính sách đối với kinh tế thủ công nghiệp dù thay đổi qua các triều đại nhưng đều có những tác động trực tiếp đối với sự phát triển của kinh tế thủ công nghiệp ở địa phương như chính sách thuế khóa, chính sách lao dịch hàng năm, những quy định ngặt nghèo trong việc chế tạo sản phẩm thủ công nghiệp, quy định trong trao đổi, buôn bán các sản phẩm....

Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống thường nhật và lao động sản xuất, nhữngngành nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An vẫn được duy trì và phát triển ở một mức độ nhất định dựa trên những lợi thế mà thiên nhiên ưu đãi và sự tài hoa, cần cù của những người thợ thủ công của vùng đất này.

Một số nghề thủ công tiêu biểu

Nghề truyền thống ở Nghệ An tương đối đa dạng, thống kê cho biết Nghệ An có khoảng 100 nghề, làng nghề thủ công truyền thống(8). Theo ghi chép của Bùi Dương Lịch, nghề dệt vải có ở Nộn Hồ, Nộn Liễu, Lâm Thịnh, Đông Liệt (huyện Nam Đường, sau là huyện Nam Đàn), Quan Trung, Trung Phường (huyện Đông Thành), Nhân Lý, Quỳnh Đôi, Thượng An, Hoàng Nghĩa (huyện Quỳnh Lưu). Vải lụa chỉ đủ cung cấp cho nhân dân địa phương.

Về bách công có: xã Hoa Lâm, huyện Đông Thành làm đồ sắt; xã Vân Đồn ở huyện Nam Đường (sau là Nam Đàn), xã Lý Trai ở huyện Đông Thành làm lưỡi cày, xã Lưu Sơn, huyện Nam Đường làm đồ gốm; xã Ngô Trường, huyện Chân Phúc (sau đổi là Nghi Lộc) làm đồ tre, xã Dũng Quyết ở huyện Chân Phúc, xã Thái Xá, huyện Đông Thành (nay là Yên Thành) dệt chiếu cói. Các nghề thủ công này "rất thô sơ vụng về" và "những hàng ấy cũng đủ dùng trong dân gian mà người làm nghề cũng chỉ đủ ăn mà thôi"(9).

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ đề cập một cách khái quát một số nghề thủ công tiêu biểu là nghề làm muối, nghề đóng thuyền, nghề luyện sắt và nghề rèn, nghề gốm, nghề nung vôi bằng vỏ sò.

Nghề làm muối

Nghề làm muối thuộc nghề thủ công nghiệp khai thác, rất tiêu biểu ở Nghệ An dựa trên lợi thế giáp biển, có bờ biển dài. Không có tài liệu ghi chép về thời gian xuất hiện nghề muối và ai là tổ nghề nhưng hiện nay còn tồn tại một số giả thuyết do các diêm dân cư trú tại các làng ven biển lưu truyền lại. Dân chúng ở Tiên Yên (Quỳnh Bá) kể lại: có một người họ Nguyễn từ Vĩnh Lại (Hải Dương) di cư vào mang theo nghề muối truyền cho dân làng. Bên cạnh đó, lại có chuyện lưu truyền từ thế kỷ XVI: Mai Phúc Trí ở huyện Thuần Lộc, phủ Hà Trung dạy cho dân nghề làm muối. Bản tộc phả của họ Hồ ở Thượng Yên có chép: "Khi đến Thượng Yên, ông Hồ Công Hân cùng dân làng phía trên đắp đê làm ruộng, phía dưới khai thác làm muối"(10).

Nghề làm muối là công việc vất vả, nặng nhọc, lại lệ thuộc vào điều kiện thời tiết diễn ra hàng ngày. Trong quá trình sản xuất, người thợ ở Nghệ An đã từng bước cải tiến kỹ thuật làm muối, chuyển từ việc nấu muối trên lò, năng suất thấp sang việc tạo ra những ô sân phơi muối, tận dụng ánh nắng mặt trời để đạt được năng suất cao hơn. Diêm dân nhiều làng ở Quỳnh Lưu như Quỳnh Yên, Quỳnh Thuận, ở Diễn Châu như Vạn Phần, Lý Trai, An Bài, Kim Lũy… đều dùng vữa hàu láng mặt trên của các ô sân phơi muối(11), vừa tiết kiệm chi phí, vừa đem lại hiệu quả sản xuất muối cao hơn.

Nghề làm muối phân bố chủ yếu ở các làng ven biển ở Nghi Lộc, Quỳnh Lưu và Diễn Châu. Sách An Tĩnh cổ lục chép: thế kỷ XV, tại Cửa Xá(12), có những đầm phá do Lê Lợi ban thưởng cho công thần Nguyễn Hội. Nguyễn Hội cho lập nên làng Thái Xá, nay là Thượng Xá có những nại muối lớn và trở nên giàu có(13). Tuy nhiên, đến những năm 30 của thế kỷ XX, những nại muối này không còn nữa, do đất phù sa bồi lấp dần vào, cho nên nại muối bị cách về phía đông(14).

Muối được sản xuất ra không chỉ cung cấp cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân, mà còn là mặt hàng trao đổi có giá trị cao. Nhà nước Lê - Trịnh xác định việc làm muối là có "lợi ích rất rộng"(15). Vì vậy, nhân dân không được phép tùy tiện buôn bán, đến năm Ất Mùi (1715), Nhà nước mới bãi bỏ lệnh cấm mua bán, cho phép nhân dân được công khai lưu hành, trao đổi(16). Thực tế, nhân dân được tự do buôn bán muối dưới sự điều tiết của nhà nước thông qua các chính sách thuế độc quyền đối với muối ban hành năm Tân Sửu (1721). Diêm hộ(17) phải có bài của quan Giám đương mới được đến trường muối, phải mua muối công trước mới được mua muối của táo đinh(18) với số lượng đã được quy định. Việc mua, bán muối đều có giấy tờ làm bằng chứng(19). Với cách quản lý như vậy, diêm hộ phải mất một khoản tiền hậu hĩ cho quan Giám đương mới được cấp giấy, lại phải mua muối công với giá cao, điều đó khiến cho giá muối bán ra ngoài thị trường đắt đỏ, "có khi một đấu muối giá đến một tiền", dẫn đến hậu quả là "muối ăn ở dân gian ngày một khó khăn", buộc Nhà nước phải có sự điều chỉnh chính sách thuế muối vào năm Nhâm Tý (1732).

Chính sách thuế của Nhà nước đối với diêm hộ khá ngặt nghèo, buộc diêm dân phải tuân thủ nếu muốn tiếp tục khai thác và buôn bán. Thuế muối ở nội trấn là 1 quan tiền quý trên 100 cân muối, ở ngoại trấn là 3 quan tiền quý cho 100 cân muối. Trong khi đó, 2/10 số muối táo đinh nấu được bị nhà nước thu, sung làm muối công(20). Năm 1746, triều đình Lê - Trịnh sai Phạm Doãn [Kinh] Vĩ làm Giám tri diêm đạo Nghệ An, bắt các diêm hộ phải nộp mỗi mùa 40 hộc muối vào hai kỳ mùa đông và mùa hạ(21). Nhìn chung, chính sách thuế cùng quy định nghiêm ngặt của Nhà nước trong sản xuất và mua bán khiến cho hoạt động sản xuất muối ở Nghệ An bị ảnh hưởng.

Nghề đóng thuyền

Nghệ An có bờ biển dài và nhiều cửa biển, cửa sông, đời sống nhân dân gắn bó với sông, với biển. Cùng với lợi thế là nơi có những cánh rừng nhiều loại gỗ phù hợp với việc đóng các loại thuyền, người dân lao động cần cù, sáng tạo, nghề đóng thuyền xuất hiện từ sớm và trở thành nghề thủ công cổ truyền của người dân nơi đây. Điển hình là huyện Nghi Lộc với những làng nổi tiếng về nghề đóng thuyền như: Trung Kiên, Áng Độ, Lộc Châu, Vạn Lộc...

Nói đến nghề đóng thuyền ở Nghệ An, đầu tiên phải kể đến làng Hoàng Lao có lịch sử hơn 700 năm với những người thợ đóng thuyền tài hoa được nhà nước trọng dụng. Năm Canh Dần (1470), trong cuộc bình Chiêm của vua Lê Thánh Tông, 1 người thợ đóng thuyền trẻ tuổi ở làng Hoàng Lao đã dâng kế cứu được thuyền ngự bị mắc cạn, tương truyền là trên kênh Sạn, hiện còn dấu vết ở Hạ Can Lộc(22). Vua Lê Thánh Tông ban thưởng, đồng thời mời người thợ về Kinh phụ trách xưởng đóng tàu thuyền của triều đình. Trước nguyện vọng được tiếp tục làm nghề tại quê nhà của người thợ trẻ, nhà vua liền lệnh giao thêm cho chàng trai nhiều tiền bạc để lập một trại đóng thuyền cho triều Lê ngay tại đất Hoàng Lao. Vì thế, nghề đóng thuyền của Hoàng Lao ngày càng phát triển, tiếng tăm lan truyền trong cả nước. Nhờ có nghề, đời sống nhân dân Hoàng Lao cũng được cải thiện như văn bia Hậu thần bi ký tạo năm Chính Hòa 17 (1698) phản ánh: "Xã Hoàng Lao, huyện Hưng Nguyên từ xưa vốn có nghề đóng thuyền nổi tiếng. Nhờ có nghề cuộc sống của dân sung túc, thịnh vượng, làng xã có đình, có bến đò, giếng nước..."(23). Nhân dân tưởng nhớ công lao Tổ nghề nên lập đền thờ. Đền Hoàng Lao (tên thường gọi là đền Trong) thờ thần Cao Sơn, Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn và Ông tổ nghề đóng thuyền là Quan Hậu họ Nguyễn. Triều Lê từng ban tặng Sắc phong cho Quan Hậu: "Tiền triều minh nghị tướng quân kỵ vệ, Tổng tri, chi hợp hoa tài, hậu Nguyễn Quý công tự Chí Đức, thụy viết Quảng Độ gia tôn hậu thần"(24). Hàng năm, làng đều tổ chức lễ hội linh đình vào ngày 5 tháng Giêng và 10 tháng 7 âm lịch để tưởng nhớ Ông tổ nghề đóng thuyền.

Những người thợ đóng thuyền Hoàng Lao còn đem tài năng của mình tham gia chế tạo những con thuyền cỡ lớn để phục vụ công tác quốc phòng, kinh tế, nhiều lần được triều đình khen thưởng(25). Để ghi nhận công lao của thợ đóng thuyền Hoàng Lao, triều Nguyễn đã cho đổi tên xã Hoàng Lao thành xã Trung Kiên.

Trải qua thời gian, nghề đóng thuyền ở Nghệ An phát triển mạnh mẽ. Trong thế kỷ XVIII, quang cảnh công trường đóng thuyền nhộn nhịp ở Nghệ An được Đốc đồng Nghệ An Trần Danh Lâm mô tả:

Dân làm gỗ vùng mé núi, chặt cây chan chát dội rừng sâu.

Phường đóng thuyền rải rác bãi sông, lắp ráp, vang trên mặt nước.

Thợ mộc lắm tay thông thạo,

Bán buôn nhiều kẻ lành nghề(26).

Để hiểu hơn về nghề đóng thuyền ở Nghệ An, việc tìm hiểu những tập tục, kiêng kị của người thợ trong việc đóng thuyền, việc đi biển là điều cần thiết. Khi cuộc sống con người gắn bó với biển, con người càng ý thức hơn sức mạnh của biển cả. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển, tập tục, tín ngưỡng của người đi biển còn gắn với niềm tin và ước vọng về sự trù phú, bình yên do biển cả đem lại cho cuộc sống con người. Cư dân đi biển thường thờ thần Long vương, thần sông Hà bá, thần Ngư Hải cá voi, Sát hải Đại vương, thần Độc cước và các vị thần bảo mệnh cho người đi biển như Tam tòa Thánh Mẫu, tứ vị Thánh nương thờ ở đền Cờn; đền Cồn thờ cá voi ở Diễn Kim - Diễn Châu, đền Vạn Lộc thờ Nguyễn Sư Hồi ở Cửa Lò…

Trong việc đóng thuyền mới cũng có nhiều nghi lễ quan trọng: chủ thuyền mang lễ đến xin phép và cầu may ở nhà thờ tổ nghề của ông chủ thợ nhận hợp đồng đóng thuyền xin cho công việc đóng thuyền được an toàn, thuận lợi, may mắn, đồng thời cầu mong cho con thuyền sắp đóng sẽ là con thuyền tốt, đem lại cơm áo sung túc cho mọi người. Nghi lễ cúng này diễn ra rất trang trọng. Khi đóng thuyền kiêng kị người lạ vào khu vực thi công, người có đại tang, phụ nữ sảy thai hoặc mới đẻ,… tín hiệu thông thường báo kiêng kị là cây dứa dại treo ngược lên. Người thợ kiêng dùng gỗ bị xà leo (dây cuốn vào thân cây để lại vết hằn trên gỗ), cây gỗ hai lòng (hai lõi trong một cây), kiêng đóng ngược gỗ. Trường hợp gỗ bị xà leo có thể đọc thần chú để hóa giải(27). Sau khi xong thuyền có lễ hoàn công, lễ hạ thủy, trong chuyến ra biển lần đầu, thuyền đều ghé vào tất cả những đền, nghè, miếu dọc đường để dâng cúng hương vàng nhằm trình báo, xin phép các thần cho thuyền mới được ra khơi, cầu chư thần phù hộ cho con thuyền gặp nhiều may mắn (28).

Cùng với nghề làm muối, nghề đóng thuyền được coi là những nghề thủ công nghiệp quan trọng của Nghệ An trong các thế kỷ XV - XVIII.

Nghề luyện sắt và nghề rèn

Nghề luyện sắt và nghề rèn xuất hiện sớm trong lịch sử. Ở vùng Nghệ Tĩnh, các làng rèn đều cho rằng ông Đùng là tổ nghề. Ông Đùng là vị thần khổng lồ tạo nên núi non ở xứ Nghệ. Trong khi nghỉ ngơi ở Ngàn Hống (tức núi Hồng Lĩnh), thần thường lấy trong lòng núi ra những khối sắt và rèn thành nhiều loại dao búa và đồ dùng bằng sắt(29).

Trong thủ công nghiệp luyện kim của Nghệ An, không thể không nói tới nghề rèn, luyện sắt ở làng Nho Lâm, thuộc huyện Diễn Châu. Nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử, gắn bó với đời sống lao động, sản xuất và chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước của nhân dân Nho Lâm. Dấu tích còn lại ngày nay cho chúng ta biết Nho Lâm là nơi có nghề luyện sắt sớm nhất cả nước. Gia phả của dòng họ Cao ở Nho Lâm ghi ông Cao Thủy, tên tự Trừng Tâm là người làm nghề đúc sắt sớm nhất. Hiệu bụt của ông có ghi 4 chữ "Giả luyện phục trương" (nghĩa là Thợ lò đúc rèn). Ước đoán, ông Cao Thủy sống vào khoảng đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459), như vậy, tính đến ngày nay, nghề luyện sắt, nghề rèn tại Nho Lâm đã có gần 600 năm lịch sử tồn tại và phát triển(30).

Nhân dân làng Nho Lâm tỏa đi khắp nơi, lập nên làng rèn Trung Lương (nay thuộc thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh), Vân Chàng (thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định ngày nay)… Khoảng thế kỷ XVI-XVII, thợ rèn Nho Lâm còn theo chúa Nguyễn vào Đàng Trong, lập nên phường rèn Tam Thái ở Tam Kì, Quảng Nam.

Sản phẩm của làng rèn Nho Lâm được đem tiêu thụ các vùng phụ cận và các tỉnh xa, vận chuyển chủ yếu bằng đường thủy, đưa hàng hóa tới tận kinh thành Thăng Long và nhiều địa phương phía Bắc(31).

Không chỉ góp phần vào phát triển kinh tế, phục vụ đời sống lao động, sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nghề rèn ở Nho Lâm còn góp phần phục vụ các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc, trong thời gian dừng chân tại thành Nghệ An, 1 sinh đồ người Nghệ An là Đặng Danh Phương cùng một số người dân Nho Lâm xin miễn quân dịch cho Nho Lâm và xin miễn nạp tiền khai mỏ quặng ở xã Quả Trình, dân làng nộp sắt cho Nhà nước thay cho thuế ruộng (đóng bằng thóc lúa) được vua Quang Trung chấp thuận(32).

Nghề gốm làng chợ Bộng

Làng chợ Bộng là tên nôm của làng Viên Sơn, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, chuyên sản xuất gốm đất nung, nổi tiếng với các loại nồi đất mà nhân dân quen gọi là "nồi Nghệ", "nồi Bông", "nồi chợ Bộng". Nghề làm gốm chợ Bộng cùng với phường Nồi chợ Bộng tạo thành làng gốm chợ Bộng(33).

Nghề gốm xuất hiện ở làng chợ Bộng vào thế kỷ XVII, do một vị quan tên là Đặng Húy Khoách người ở Vĩnh Bình, Diễn Châu đem nghề của làng nồi Vồm ở Thanh Hóa về truyền dạy cho dân. Ông cũng là người có công khai hoang lập ấp Bọng, sau gọi là làng Bộng.

Ở xã Nghi Văn, huyện Nghi Lộc, cách làng Bộng khoảng 5 - 7 km có mỏ đất sét nằm trên cánh đồng Hộ Yên hay Xa Hội có trữ lượng lớn, là nguồn cung cấp nguyên liệu dồi dào "Người ta cho rằng có mạch đất sét từ núi đùn ra, đó chính là kho nguyên liệu vô tận"(34). Sớm nhận thấy chất đất sét tại mỏ Xa Hội tương tự như chất đất sét của làng gốm Vồm (Thiệu Hóa, Thanh Hóa), Đặng Huy Khoách đã cho mời thợ làm nồi Đình (còn gọi là nồi Vồm) về dạy nghề, tạo sinh kế cho người dân, làm thay đổi căn bản đời sống của nhân dân trong vùng. Nhớ ơn vị quan có lòng thương dân, nhân dân tôn ông làm Tổ nghề(35).

Vùng núi Văn Sơn, cách làng Viên Sơn không xa có sẵn loại cây rành rành (còn gọi là cây chổi rễ, bổi) là nhiên liệu nung gốm nhiều ưu điểm như lửa cháy đượm, ít than tro, khói nhựa rành rành tạo cho da gốm màu tươi đẹp, độ bền của gốm cao hơn gốm nung bằng các loại vật liệu khác(36). Dân gian truyền tụng "Đất Xa Hội, bổi Văn Sơn", thợ gốm làng chợ Bộng đã khai thác được những lợi thế tự nhiên của địa phương để phát triển nghề.

Quy trình sản xuất tuân theo những quy trình chung của sản xuất gốm, bao gồm: làm đất, tạo hình, đốt lò, thành phẩm. Thợ gốm làng Bộng kỹ lưỡng ngay từ khâu đầu tiên: làm đất. Đất sét có 2 loại: đất xanh và đất trắng. Đất sét trắng cho ra thành phẩm tốt hơn đất sét xanh. Điều đặc biệt là trong quá trình khai thác đất sét, người thợ không được để lẫn cát vào đất vì "đất có lẫn dầu chỉ một hai hạt cát khi nung sản phẩm sẽ bị nổ, không thành thành phẩm được"(37). Bởi sự cẩn trọng đặc biệt của người thợ trong các khâu sản xuất nên nồi gốm Bộng có chất lượng tốt, được nhân dân các nơi ưa chuộng.

Nghề làm nồi Bộng vì thế cũng lan tỏa ra nhiều làng: làng Yên Duệ, xóm Lương Hội (xã Sơn Thành), làng Tràng Sơn (xã Bảo Thành), làng Quảng (xã Yên Vinh), làng Nghi Văn (xã Nghi Lộc), làng Trụ Sơn (xã Đô Lương)…

Việc tiêu thụ sản phẩm của làng gốm chợ Bộng gắn bó chặt chẽ với hoạt động của phường Nồi chợ Bộng. Sự phân công tự nhiên giữa người sản xuất và người buôn bán, một bên chuyên cung cấp hàng hóa cho thị trường tiêu thụ, một bên chuyên tìm đầu ra cho các sản phẩm đã tạo nên mối quan hệ tương hỗ, kích thích nghề gốm làng Bộng phát triển.

Nghề nung vôi bằng vỏ sò

Vôi được nung từ đá là vật liệu phổ biến được sử dụng trong xây dựng. Tuy nhiên, vôi được làm bằng vỏ sò lại là loại vật liệu khá đặc biệt, không mấy phổ biến và không phải ai cũng biết đến. Tận dụng lợi thế tự nhiên ven biển, đa dạng loài nhuyễn thể, có nguồn vỏ sò vô cùng dồi dào, bằng kinh nghiệm và sự sáng tạo tuyệt vời, người dân Nghệ An đã sáng tạo ra loại vôi được nung từ vỏ sò, còn gọi là vôi hàu. Nghề nung vôi bằng vỏ sò ra đời và cũng là một nghề tương đối đặc biệt trong hệ thống các nghề thủ công dân gian ở Việt Nam.

Nghề nung vôi bằng vỏ sò chủ yếu tập trung ở các xã Thanh Đàm, Quý Hòa, Thượng Yên ở huyện Quỳnh Lưu. Việc sản xuất vôi hàu rất tốn công và phức tạp, không trở thành thứ hàng hóa lưu thông. Người dân vì mục đích tự cung tự cấp mà sản xuất ra vôi hàu để sử dụng(38).

Những công trình được xây dựng bằng vôi hàu bền chắc hơn nhiều công trình được xây bởi vôi nung bằng đá. Những công trình ở Nghệ An, đặc biệt là tại Diễn Châu đã chứng minh tác dụng và ưu thế của vôi hàu, giúp cho các công trình tồn tại lâu dài trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Những hộ sản xuất muối thường dùng vôi hàu để láng bề mặt của các ô chạt làm muối, vừa tiết kiệm lại vừa đem lại hiệu quả sản xuất cao.

***

Từ trong lịch sử, vùng đất Nghệ An chủ yếu được biết đến là đất địa linh nhân kiệt. Vấn đề kinh tế Nghệ An nói chung, thủ công nghiệp Nghệ An nói riêng chưa thực sự được các triều đại phong kiến quan tâm. Thế kỷ XV - XVIII, mặc dù mảnh đất Nghệ An có một số điều kiện thuận lợi để phát triển các nghề thủ công nhưng nhìn chung, những hạn chế vẫn là chủ đạo, xuất phát từ cả phía Nhà nước và những khó khăn nội tại của địa phương. Do đó, kinh tế thủ công nghiệp nhìn chung chỉ ở mức độ nhất định, đáp ứng nhu cầu cuộc sống thường nhật của nhân dân mà chưa thể vươn tới trình độ sản xuất chuyên nghiệp, chưa thể tách khỏi kinh tế nông nghiệp và hướng tới sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, có một số nghề thủ công là nghề làm muối, nghề đóng thuyền, nghề luyện sắt và nghề rèn, nghề gốm, nghề nung vôi bằng vỏ sò phát triển hơn so với các ngành nghề khác. Các nghề này chủ yếu dựa trên lợi thế tự nhiên, sự ưu đãi của thiên nhiên mà tạo ra nguồn lợi. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu các nghề thủ công nghiệp ở Nghệ An một lần nữa khẳng định những giá trị của con người xứ Nghệ: sự tài hoa, sáng tạo, đức tính cần cù, chịu gian khổ trong quá trình lao động sản xuất, sự thích nghi và tính ứng biến linh hoạt trước hoàn cảnh là những đặc tính nổi trội rất đáng trân trọng.

 

Chú thích

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1993, tr.441-450; Phan Huy Lê (Cb), Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế, Vũ Văn Quân, Lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2012, tr.186-187.

2, 8, 32.. Tỉnh ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Lịch sử Nghệ An, Tập I (Từ nguyên thủy đến Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr.352, 365, 393-394.

3, 7, 28. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Nghệ An toàn chí, Tập VIII, Phong tục, tập quán xứ Nghệ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2013, tr.525, 384, 385, 529.

4. Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1982, tr.195.

5, 13, 14. Hippolyte Le Breton, An Tĩnh cổ lục, Nxb. Nghệ An và Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Nghệ An, 2005, tr.99, 259, 98, 99.

6, 21. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.1118 - 1119, 590.

9. Bùi Dương Lịch, Nghệ An ký, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2018, tr.256-257.

 10, 11, 22, 24, 26, 30, 31, 38. Ninh Viết Giao, Nghệ An, đất phát nhân tài, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006, tr.386, 388, 400, 399, 397, 366-367, 368-369, 364-365.

12. Cửa Xá: sau gọi là Cửa Lò.

15, 19. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991, tr.87.

16. Đại Việt sử ký tục biên (1676 - 1789), Sđd, tr.69; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2007, tr.134-144; Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập II, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr.422.

 17. Diêm hộ: người buôn muối.

 18.Táo đinh: người nấu muối.

20. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập II, Sđd, tr.134-139.

23. Tuyển tập văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, tr.189.

25. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập XXXVI, Nxb. Giáo dục, 1976, tr. 338. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, Tập XIII, tr. 369, 351.

27. Tại làng đóng thuyền Trung Kiên, xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, các thợ cả khắc phục cây gỗ phạm bằng kinh nghiệm dân gian cổ xưa truyền lại. Người thợ cả vừa đọc 3 câu thần chú vừa bổ rìu vào những tấm ván của cây gỗ bị xà leo: Câu 1: Đệ nhất phát mộc trảm "thiên yêu" (nhát thứ nhất chém trừ yêu tinh trên không trung); Câu 2: Đệ nhị phát mộc trảm "mộc yêu" (nhát thứ hai chém trừ yêu quái trong cây gỗ dùng đóng thuyền); Câu 3: Đệ tam phát mộc trảm "thủy yêu" (nhát thứ ba chém trừ yêu quái trong cây gỗ ngâm ở dưới nước kể từ khe nước nơi chặt cây gỗ đến bến sông đóng thuyền) (Ủy ban Nhân dân tỉnh Nghệ An, Nghệ An toàn chí, Tập VIII, Phong tục, tập quán xứ Nghệ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2013, tr.528).

29. Viện Văn hóa Dân gian, Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1990, tr.31.

33, 34, 37.Phạm Văn Kính, "Làng gốm chợ Bộng", Nghiên cứu Lịch sử, số 3 (280), năm 1995, tr.49, 50, 51.

35. Phạm Văn Kính, "Làng gốm chợ Bộng", Tlđd, tr.49-50; Bùi Văn Vượng, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1998, tr.168-169, 172.

36. Bùi Văn Vượng, Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Sđd, tr.172.

 

Phạm Xuân Cần

 

Tư liệu về chuyến thăm quê của cụ Phan Bội Châu năm 1926

Tháng 7 năm 1925 Cụ Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc). Ngày 23/11/1925 Cụ bị tòa án của Thực dân Pháp ở Hà Nội xử khổ sai chung thân. Nhưng, ngay sau đó Cụ được Toàn quyền Đông Dương Varenne ân xá. Ngày 25/11/1925 Cụ rời Hà Nội về Huế. Trên đường Cụ đã dừng lại ở Vinh để thăm hai người con trai, rồi lại tiếp tục hành trình.

Hơn hai tháng sau, ngày 6/2/1926 cụ Phan Bội Châu lên đường về thăm quê, sau hơn hai mươi năm bôn tẩu đấu tranh. Báo chí đương thời đã phản ánh khá chi tiết chuyến thăm quê của Cụ. Một số bài báo sau đó được tập hợp in thành sách. Chúng tôi đã sưu tầm được hai cuốn như vậy. Đó là cuốn "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước", do Nhà in Xưa Nay, Sài Gòn xuất bản, năm 1926. Cuốn thứ hai là "Thanh khí nhẽ hằng" do Nhà in Thực Nghiệp ấn quán, Hà Nội xuất bản năm 1926.

Xin trân trọng giới thiệu!

Ông Phan Bội Châu về thăm quê nhà(1)

Hành trình Phan Bội Châu từ Huế ra Nghệ và từ Nghệ vô Huế

Cụ Phan về thăm nhà tại Nghệ An, cụ bắt đầu lên đường từ ngày 6 Fevrier 1926 (6/2/1926) hồi bốn giờ sớm mai, đi theo cụ có ông nghè Ngô Đức Kế, ông Nguyễn Đình Ngân và một cậu học sanh Huế.

Khi đến Nghệ An là tĩnh quê hương của cụ thì nhơn dân gần tới 2000 người, tiếng reo mừng vang trời động đất.

Bốn giờ sớm mai có giàn xe hơi ra tới Hà Tịnh, đúng 5h rưỡi chiều tới trọ nhà ông Đốc Hà Huy Sằn ở trong thành thì tức thời có giấy quan Đocter Tây bắt ông đi làm thuốc ở một làng xa thành phố chừng 30 kilomet  (nghe dân bịnh - nhân chỉ đau một ngón tay mà thôi).

Các nhà tri thức đến mời cụ và ông Nghè Ngô ra dự tiệc tại khách sạn Hà Tịnh, tiệc mãn lúc 9h tối mà cửa thành đã đóng, làm cho hai cụ phải ngủ trọ một đêm ở khách sạn. Ngày mai 7 Fesvrier cụ vào nhà ông Sằn thì có các nhà tân cựu học tới yết kiến cụ rất đông. Cụ có diễn giải mấy lời về Pháp - Việt đề huề2 và tinh thần ái quốc của dân tộc Việt Nam mình.

Đến ba giờ chiều ông Hoàng Đức Thi3 ủy viên của hội Quảng Tri4 Vịnh đem xe hơi vào rước cụ 6 giờ tối tại Vịnh. Các hội viên hội Quảng Tri rước cụ tới hội quán. Cuộc tiếp rước này có bề long trọng lắm; trước cửa hội có dựng khải hoàn môn bằng bông lá, pháo nổ đì đùng, đèn điện sáng choang, cờ Pháp cờ Nam bay phất phới thật là xem có vẻ oai nghi.

Vào hội quán ông Lê Thước5 đại biểu cho cả anh em có đọc mấy lời chúc mừng và khuyên răn anh em nhứt là bọn "tân tiến cùng hạ lưu" trong khi cụ về xứ sở đừng quá mừng cụ mà làm những điều bạo động thì không nên. Cụ có tỏ tình cảm ơn các anh em có lòng rước một cách quá long trọng như thế này. Tiệc trà xong rồi cụ trở về nhà trọ, 7 giờ rưỡi lại hội quán dự tiệc, các món ăn làm toàn sản vật xứ Nghệ. Khi vào tiệc ông Nguyễn Hiệt Chi6 có mấy lời trình cụ đại khái nói anh em lấy bữa cơm tổ quốc đãi một vị anh hùng ái quốc, lại lấy những đồ ăn thức uống sản vật của xứ Nghệ An mà đãi một vị anh hùng ái quốc đã sản xuất ra ở đất Nghệ An này, sau cụ cũng vui lòng mà hạ cố cho, sau nữa mong cụ đem những món Pháp - Việt đề huề mà phân phát cho quốc dân.

Cụ tỏ ý vui lòng mà dự tiệc, trong khi chén tạc chén thù cụ cố gắng cho anh em nghe về chữ nghĩa cụ. Cụ có nói, nếu chính phủ thật có lòng cho ta uống giọt sữa văn minh, thì ta cũng nên lấy giọt máu nhiệt thành mà đãi lại. Tiệc xong các nữ giáo viên có lời mừng cụ. Về nhà trọ của hội đã sắm sẵn, các học sinh Vịnh đều đến hầu cụ rất đông, cụ có khuyên anh em về nghĩa hiệp quân và tính nhẫn nại.

Ngày 8 Fevrier, cụ vào thăm quan sứ Nghệ7, nghe đâu tiếp tử tế lắm. 8h rưỡi ngày ấy có Phan phu nhơn8 con và dâu vào thăm cụ. Phu nhơn có nói một câu rất khảng khái như sau nầy: "Thưa thầy, vợ chồng xa cách nhau nay rót hai mươi năm lẻ, thầy còn sống mà về đến xứ sở thế là tôi lấy làm trân nguyện. Thầy đã đem thân ra làm việc cho nước, thì sao cho hết nghĩa vụ cho bằng lòng quốc dân, chớ có nên tưởng chi việc vợ con nghèo túng, miễn sao giữ cho tròn danh tiết là hơn. Đó là điều của tôi nguyện vọng bấy lâu nay. Còn việc gia đình đã có tôi lo liệu rồi".

Cụ ra vẻ hòa nhã cảm động mà rằng "Mấy lời bà nói rất là chánh đáng tôi lấy làm cảm ơn", cụ lên xe hơi về thăm quê nhà ở huyện Nam Đàn cách tỉnh thành hơn 20 cây số. Khi xe hơi về tới nhà, các thân hào kẻ tới người lui thăm viếng rất là rộn rực.

Buổi chiều về tỉnh, cụ lại thăm trường học. Cụ có nói với ông Đốc rằng "tôi muốn đặt một phòng riêng để những đồ của học trò làm bằng tay để khuyến khích các học sinh về đường kỹ nghệ; sau đó dù các đồ thể thao dễ học, trò luyện gân cốt cho mạnh mẽ vì sự yếu ớt của thân thế nó làm trở ngại các đường tiến bộ cho dân Việt Nam lắm rồi"

Ngày 9 - ngày 10 Février - tiếp khách phần nhiều học trò cùng bạn đồng chí của cụ ngày xưa. Chiều lại các học sinh Vịnh có đọc một diễn văn chúc mừng cụ, nhưng xem ra có phần kịch liệt lắm, ngày 11 Février cụ dọn vào ở nhà hai cậu con ở trong thành. Chiều cụ lại đi dự tiệc ở nhà người học trò cũ của cụ.

Ngày 12 Février  12  cụ định đi dạo xem thành thị nhưng trời mưa quá.

Ngày 13 Février, chiều cụ lại đi chơi Bến Thủy, thưởng thức các phong cảnh sông Lam giang, xem thử ngọn nước trong cuộc biến canh thay đổi chừng 20 năm dư nó có đầy vơi ra thế nào chăng?

Ngày 14 Février 3 giờ sáng cụ lên xe vô Quán Nghè là chỗ quê của ông Nghè Ngô ở lại đó một ngày một đêm.

Sáng hôm 15 Février 3 giờ sáng vào Đồng Hới, 10 giờ rưỡi ngày ấy tới tỉnh, vào ở nhà ông Đốc Nguyễn Kinh Chi thầy thuốc, các nhà tri thức vào chào cụ nữa; 11 giờ cụ vào dự tiệc ở hội Quảng Tri, tiệc cơm tây, 5 giờ chiều cụ vào thăm Quan Sứ truyện trò rất ân cần; khi cụ từ giã, quan sứ có tặng cho cụ một cành bông. Cụ trả lời rằng: Tôi mong rằng: Chánh phủ sẽ lập ra một cái công viên  cho người Pháp - Nam được hưởng chung những mùi thơm tho ý vị của cái sự Pháp - Việt đề huề mà nó kết nên. 6 giờ tối cụ đi tiệc cơm An Nam tại khách sạn. 7 giờ rưỡi cụ vào hội Quảng Tri có ông Lâm Mậu thay mặt các hội viên đọc một bài diễn văn tán thành và hoàn chỉnh cái chủ nghĩa của cụ. Chuyện trò rất vui vẻ ân cần, 8 giờ tối cụ đi dạo phố, cụ đi giữa, hai bên có hai người cầm hai cây đèn Manchon, ở sau thì các nhà thân hào trí thức, thiên hạ chạy theo, nhứt là con nít và học sanh, lũ lượt kéo theo, như một ngày lễ gì lớn vậy.

10 giờ ngày 16 Février cụ lên xe hơi vào Huế thế là cuộc hành trình của cụ Phan đã hoàn hảo. Trong bài này cũng nên nhắc lại một việc như sau này để cho độc giả xem mà suy xét.

Số là khi cụ Phan từ Huế ra đến Nghệ An khi đến ngang sông Gianh có gặp một người tự xưng là chuyên nghề buôn bán, gặp cụ thời người ấy xem ra vui vẻ nhiệt thành với cụ lắm, khi xe hơi đến bến thì ông ấy lấy ra tờ giấy 20$ xin tặng cho cụ mà nói rằng: 20$ này tôi dâng cụ để sau này cụ có in quyển sách gì mà có ích quốc lợi dân thì cụ nên dùng số tiền mọn nầy để chi phí gọi là cái lòng thảo của một người Việt Nam thương nước Việt Nam.

Cụ vui lòng nhận tiền

Cụ có hứa rằng cụ đợi cụ Phan Chu Trinh rồi cũng vô Nam kỳ nhưng tiếc thay cụ Trinh vừa mới mất tại Sài Gòn ngày 24 Mars (24/3/1926) thì cụ Phan hứa rằng: sang tháng ba An Nam sẽ vô Nam Kỳ.

Đồng bang ta trong Nam sẽ sắp có cuộc tiếp rước cụ rất long trọng.

Cụ Phan Bội Châu thăm trường Quốc học Vinh9

"Đến ngày hôm sau 27 ta cụ Phan đi chào hai quan chủ tỉnh rồi cùng với vài ông thân hào đi dạo chơi thành phố, nhân quan Đốc học bản tỉnh có cho một viên giáo học tới tỏ ý cùng cụ rằng ngài muốn mời cụ tới thăm trường Cao đẳng Tiểu học, nên cụ cũng lấy làm vui lòng mà tới thăm. Lúc cụ tới quan đốc học đã sắp đặt tử tế. Tuy học trò hôm ấy nghỉ tết nhưng cụ trông thấy học đường to lớn, học vụ mở mang, nào sở dục tài, phòng thí nghiệm, nào phòng cách trí, phòng họa địa đồ (vẽ địa đồ bản tỉnh và các bản đồ địa chất cổ tích thổ sản các hạt), nào trường thể thao, vườn thí nghiệm, các loài cây cùng các thứ phân bón vân vân. Cụ rất lấy làm khen ngợi, cho nên khi từ giã ra về cụ Phan cám ơn quan đốc trường đã lấy lòng thành thực việc ích lợi mà khai đạo cho thiếu niên Nam Việt nhất là ở chỗ Nghệ An này là nơi quê quán của Cụ nên cụ lại càng thêm cảm lắm.

Cụ có yêu cầu hai điều: Một là trường thể thao muốn mở thêm cho rộng, để học trò tập luyện cho thêm sức mạnh, hai là lập một phòng bày các đồ thủ công của học trò làm ra để vừa thưởng khuyến học trò, lại vừa để khách tới thăm trường được mục kích cái sự tấn hóa của học trò về đường thủ công. Quan đốc học lấy điều yêu cầu của cụ làm phải và có trả lời mấy câu như sau này: Việc tập thể thao ngài thường lưu ý, chẳng những tập luyện hằng ngày mà thôi, mỗi thứ năm và chủ nhật học trò còn vào trong than đá cầu nữa, hiện nay chỗ tập thể thao vẫn còn chật hẹp, ngài đã nhiều lần xin tiền sửa sang các đám đất trong trường lại mà mở thêm cho rộng, chắc ít lâu nữa sẽ được như nguyện.

Còn việc lập phòng thủ công thì ngài đã nghĩ tới, song chưa làm được là vì phòng học tuy nhiều mà số học trò đông quá choán hết, không còn dư chỗ, cho nên còn đợi bao giờ có thêm phòng sẽ hay; hiện bây giờ thì lớp nào cũng còn cất trữ đồ vật ấy để sau có chỗ thì đem ra bày. Trong lúc đi xem trường thì quan đốc học có dẫn cụ Phan tới xem phòng để tài liệu của Hội "Hoan Châu cổ học", hội này mới lập, hội viên có đủ người Pháp, người Nam, mỗi năm chỉ góp mỗi người 2 đồng để làm tiền in tạp chí của hội đăng những bài khảo cứu của hội về cổ tích phong tục, văn chương mỹ thuật cùng là địa lý địa dư của tỉnh Nghệ xưa nay, có mấy bức ảnh phóng đại của Đền Công (đền thờ vua Thục An Dương Vương gần phủ Diễn Châu), Vạn An cổ thành và đền thờ vua Mai Hắc đế (huyện Nam Đàn), thành Liễu Thăng (Hưng Nguyên), thành Lục Niên (Lê Thái tổ xây tại núi Thiên Nhận, huyện Thanh Chương), và miếu cùng lăng ông Nguyễn Thiếp, tức là một ông ẩn sỹ về đời Tây Sơn, thường gọi Lục Niên phu tử. Cụ Phan xem xong lấy làm vui lòng và khen ngợi. Nhân quan đốc Le Breton là hội trưởng Hoan châu cổ học có lời xin cụ mỗi khi thong thả làm giúp cho một ít bài về thuộc về lịch sử của bản tỉnh. Cụ Phan nhận lời".

Mấy bài điển văn10

Khi ông Phan dự tiệc tại Vịnh và Hà Tĩnh có bài diễn văn chúc tụng ông như sau nầy:

Thưa Phan tiên sanh

Thấy một người anh em đi lâu mới về, chết rồi sống lại, bà con ai chẳng vui mừng! Huống chi người anh em ấy lại thật có quan hệ đến vận mạng của nhà và họ ta. Đọc một truyện anh hùng, xem một tấn diễn kịch anh hùng ai cũng kính mến những người anh hùng quá khứ. Huống chi gặp được một người anh hùng hiện tại đi qua trước con mắt ta.

Nghe nói một nước nào hèn yếu mới xuất hiện một bậc vĩ nhơn thì người lân bang đều tỏ lòng mừng cho hậu vận của nước ấy, huống chi chính ở tổ quốc mình sanh được vĩ nhơn, đã làm vẻ vang cho nòi giống mình. Hơn mấy tháng nay đồng bào đối với tiên sanh và hôm nay anh em chúng tôi hoan nghinh tiên sanh thật vì "ba mỗi cảm tình" đã nói làm cho lòng người tự nhiên liên lạc không phải cưỡng bức.

Quốc dân lấy sự được thấy, được thừa tiếp tiên sanh làm hân hạnh lắm, chúng tôi tưởng tiên sanh lại hân hạnh hơn bội phần. Sao vậy? hai mươi năm đất khách quê người, nay được trông thấy bà con anh em trong nước, được nhìn lại non sông cây cỏ của mình, ấy là một sự vui mừng thường tình. Đi lâu mới về mà anh em không kêu mình là một tên "đi hoang" chết đi sống lại mà anh em không chê mình là một người "tham sanh" lại không cho mình là một người "dư sanh vô bổ".

Tuy rằng cái trí của tiên sanh chưa thỏa nhưng mỗi khi tiên sanh tự xét, ắt cũng bằng lòng rằng cái thân mình cũng đã gánh được một việc to lớn khó nhọc giữa đời. Chẳng những vì những lẽ ấy tiên sinh lại còn một lẽ rất đáng hân hạnh nữa, là nay tiên sanh đến đâu, quốc dân đã biết hoan nghinh tiên sinh, so với năm sáu năm về trước, không ai dám đọc sách, đọc văn của tiên sanh làm ở trước công chúng, ấy đủ biết bây giờ trình độ tiến hóa của quốc dân đã khác trước nhiều mà chánh phủ bảo hộ đối với tư tưởng của quốc dân cũng đã thiệt hành được nhiều. Tiên sanh thấy thế hả chẳng hân hạnh lắm sao?

Có người nói rằng hiện tình trong nước còn có nhiều đảng phái, chủ nghĩa khác nhau chưa phải đã đều một mực khuynh hướng tiên sinh cả đâu. Vả lại có nhiều người muốn giả làm cách sùng bái tiên sanh để mua chút danh "kết thức anh hùng" hoặc chút danh "anh hùng mới biết anh hùng", kẻ khác lại muốn làm điều ấy để chuộc cải tiếng xấu của mình lâu nay tham danh đồ lợi. Tiên sanh chớ nên vội tin lòng người. Họ nói điều ấy vẫn phải vẫn có lẽ, nhưng đây chúng tôi quyết rằng: bất luân đảng phái khác nhau thế nào, ngày này quốc dân hoan nghinh tiên sanh là hoan nghinh một người trung thành ái quốc đã làm vẻ vang cho nòi giống nước nhà. Xem mấy năm trước ở đây cũng có người anh hùng ái quốc như tiên sanh mà họ không liệu thời thế; chuyên chủ bạo động, rõ mặt phản kháng một cách không khôn khéo nên quốc dân không dám hoan nghinh.

Có người lại nói quốc dân hoan nghinh tiên sinh là chủ trông cậy tiên sinh, lời nói ấy nghe cũng có lẽ, nhưng chúng tôi đây thiệt không muốn quốc dân chuyên ỷ lại vào tiên sinh đâu. Nước Việt Nam ta suy yếu là vì một người giàu có cả họ trông nhờ, một người làm quan cả làng trông cậy. Số người ỷ lại thì nhiều mà số người tự lập thì ít, trách nào họ không suy, làng không điêu, mà một nước cũng vậy, một người trong nước không biết tự lập thì nước ấy ắt sẽ không thể sinh tồn với các nước khác được. Tiên sanh hiện đang trông cậy quốc dân lại chỉ ỷ vào tiên sinh! Ôi còn có ích gì. Nếu hẳn quốc dân không ai biết tự lập mà ngày chỉ trông cậy một mình tiên sanh thì tiên sanh ắt phải thở dài mà than rằng: cả nước bây giờ chỉ mỗi mình tiên sanh mà già yếu mất rồi!

Lại có một lời khác nữa, họ nói những sự nghinh tiếp tiên sanh thật là một sự hư văn làm phiền cho tiên sanh mà lại có khi làm trở ngại cho sự hành động của tiên sanh nữa.

Lời nói ấy lại cũng thêm một ý kiến, chúng tôi đây thật không muốn làm mãi những việc "hư văn vô bổ" ấy đâu. Nhưng tiên sanh bây giờ đã sẵn lòng giúp quốc dân và chánh phủ để thiệt hành cải chánh sách "Pháp việt đề huề" thì tất chánh phủ cũng không lấy sự hoan nghinh tiên sanh làm giới ý, vả lại tiên sinh còn cần có tai mắt quốc dân để giúp sự quan sát, nếu tiên sinh cùng quốc dân không được trực tiếp với nhau, thì mắt quan sát chẳng được tin tưởng. Thưa tiên sanh, gần đây nhiều người nô nức hỏi sự hành động của tiên sanh sẽ ra thế nào. Chúng tôi đây ở vào cái địa vị khác và kiến thực hẹp hòi, làm sao mà ức đạt ý kiến tiên sanh cho được, nêu câu hỏi ấy thật khó trả lời. Chúng tôi chỉ biết rằng tiên sanh là một nhà ngôn luận, lại là một nhà hành động, tiên sinh sẽ soạn nhiều sách, sẽ đi diễn thuyết để mở trí khôn cho quốc dân, sẽ điều hòa các đảng phái trong nước khiến cho ai nấy đều xây về chủ nghĩa hoàn thiện rất hiệp thời để khỏi làm nhọc lòng quốc dân và khỏi để sự khó khăn về sau. Thôi chúng tôi không dám nói ức đạc lắm, chúng tôi kính xin dừng trước. Tiên sanh tỏ lòng hân hạnh được thừa tiếp lần nầy là lần đầu và tỏ lòng hoan nghinh cái chủ nghĩa "Pháp Việt đề huề" của tiên sanh.

Kính chúc Việt Nam vạn vạn tuế

Kính chúc Phan tiên sanh trường thọ.

Tờ chúc tụng ông Phan Bội Châu trong buổi ông tới thành phố Vinh

    Thưa cụ

Cụ là một bậc vĩ nhơn ái quốc rất quả quyết, rất kiên nhẫn mà ông xanh kia đã giáng sinh ra giữa đất Nghệ An nầy. Hai chục năm thừa đi ra ngoại quốc lấy bút làm chuông lấy nghiên làm mõ, đánh thức quốc dân dậy trong cơn mê mẩn mấy trăm năm: cái nhiệt huyết, cái khổ tâm không giấy mực nào mà tả cho xiết được.

Từ khi cụ bị bắt đến nay cụ được thả ra, quan khâm sứ đón cụ vào Kinh bây giờ đi du lịch ghé về thăm quê mà quang cố đến hội quán Quảng Tri, chúng tôi lấy lòng hoan hân, cảm bội chẳng khác như một vị thành hoàng thượng đẳng xuất ngoại đã mấy mươi năm nay lại trở về nhập điện vậy.

Xưa nay các bậc hào kiệt anh hùng là những cái cây chống vững cho xã hội, cho nhơn quần, chuông vẫn lành, mõ vẫn tốt, cụ cử đưa chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề của cụ đã để xưởng lên chín mươi năm trước, đánh cho có nhịp nhàng, rung cho chuyển động, cho trên thấu đến tại chánh phủ, dưới vang đến óc quốc dân. Chúng tôi dẫu câm điếc đến đâu cũng phải theo cụ mà bôn tẩu hô hào, đặng dắc 25 triệu đồng bào ta lên con đường tấn hóa.

Ôi! Lam Giang còn nước, Hồng Lĩnh còn cây, kính chúc cụ hãy còn trường thọ.

Hỡi các anh em chị em, nhắn cụ về thăm nhà đi qua chỗ này mà các anh em chị em tới chào mừng cụ đông đủ như thế này, hăm hở như thế này, đã biết ai nấy đối với cụ cũng có lòng thương yêu kính mến. Tuy vậy ta đã yêu cụ mến cụ, thì trước ta phải làm thế nào cho cụ dễ xử về sau. Cụ có cái nghĩa vụ đối với quốc dân nhưng lại có nghĩa vụ đối với chánh phủ nếu để cho nghi ngờ chán nản, thì ta yêu cụ ấy làm trở ngại cho cái sự nghiệp của cụ.

Vậy cho nên nhân có anh em chị em đông đủ ở đây, chúng tôi xin tỏ một lời rằng trong lúc cụ còn lưu chơi ở chỗ nầy là chỗ quê hương đất tổ của cụ, chúng ta chớ nên làm những sự ồn ào, những điều nóng nảy đã không để cho cụ được yên nghỉ lại còn làm cho cụ phải đeo phiền, thì thật là yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau đó. Xin anh em chị em ai nấy nghĩ lại để cho cuộc về thăm nhà lần này là toàn là vui vẻ, sau sẽ còn nhiều lần khác nhau. Thảng hoặc có ai chưa hiểu rõ cái thân ý của tôi nói mà toan làm điều hô hào náo động thì cũng nhờ anh em chị em đây vì cụ vì đất nước này mà nhắn nhủ khuyên răn để cho cụ đi chỗ nào cũng đều có trật tự và êm đềm như hôm nay cả.

Tên các ngài dự tiệc như sau nầy:

Lê Thiện Thuật - tham tá tòa sứ Vinh; Lâm Sô - tham tá canh nông; Võ Hàm Chương - Phán sự tòa sứ Vinh; Võ Công Minh - bào chế sư nhà thương Vinh; Thân Trọng Phước - Thầy thuốc nhà thương Vinh; Nguyễn Đức Tánh - tú tài trợ giáo; Trần Đình Định, Nguyễn Văn Thiêm - y sanh nhà thương Vinh; Trần Đình Hòe, Lê Hoàng Hưng - phán sự và y sanh nhà thương Vinh; Hoàng Ngọc Quyết - trợ giáo; Lê Văn Phụng - Phán sự nhà thơ; Nguyễn Văn Tình - hội viên; Nguyễn Văn Thanh - Thầu khoán; Hồ Sĩ Quế - Phán sự tòa sứ Vinh; Thái Cữu - Trần Phú; Đỗ Kuế Tuyên - giáo học; Nguyễn Đình Xuân, Đào Đình Phong, Đỗ Hữu Cần - thương mại.v.v.

Bài chúc tụng ông Phan trong bữa cơm các thân hào đãi cụ tại nhà hội Quảng Tri ở Vịnh

Thưa cụ

Cụ ngậm đắng nuốt cay, đi ra hải ngoại, đã mấy chục năm trời, uống hết giá, ăn hết sương, cầu cho dân tộc Việt Nam ta hưởng được nhiều phần hạnh phúc? Vẫn biết rằng: tiệc Tàu tiệc Nhựt tiệc Xiêm cho đến tiệc Nga tiệc Đức chẳng thiếu chi mĩ vị trân tu, nhưng lấy lòng chưa chắc mà suy, chắc cụ trông người mà ngẫm đến ta, nước mắt cụ chứa chan không thể nào nuốt được.

Bữa cơm này là bữa cơm tổ quốc mà đồ ăn thức uống toàn dùng vật sản Nghệ An, chúng tôi lấy một bữa cơm tổ quốc đãi một vị anh hùng ái quốc lại lấy những đồ ăn thức uống toàn sản vật Nghệ An mà đãi một vị anh hùng ái quốc đã sản xuất ở đất nước Nghệ An nầy, sao cụ cũng vui lòng hạ cố đến. Chúng tôi lại được hầu một bữa cơm nầy với cụ, ngửi cái mùi rất thanh liêm, rất thuần khiết, ắt chánh đại quang minh của cụ, tưởng không ăn cũng no, không uống cũng phải say vậy.

Chúng tôi bưng chén rượu Nam nầy chúc cụ xin cụ đem những món Pháp Việt đề huề mà cụ dọn ra năm trước mời chánh phủ ban phát cho quốc dân chắc Việt Nam ta sẽ có cái lễ chánh chung riêng cho hăm lăm triệu quốc dân được ăn chơi sung sướng thì chúng tôi lấy làm mãn nguyện lắm".

 

 

 

Chú thích

1. Rút trong sách "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước"

2. Pháp - Việt đề huề: Chủ trương chính trị do thực dân Pháp đưa ra trong Chiến tranh thế giới I. Mục đích chính nhằm kêu gọi sự hợp tác Pháp - Việt để đảm bảo sự ổn định chính trị và huy động sức người sức của của Việt Nam phục vụ chiến tranh đế quốc. Một số cá nhân và tổ chức chính trị thân Pháp tuyên truyền ủng hộ chủ trương này. Thực dân Pháp cử người sang Trung Quốc vận động Phan Bội Châu ủng hộ chủ trương nói trên. Tương kế tựu kế, Phan Bội Châu viết bài "Pháp Việt đề huề chính kiến thư" yêu cầu Pháp trả lại chủ quyền cho Việt Nam, thực tâm giúp Việt Nam tiến bộ văn minh. Toàn quyền Anbe Xarô đã bác bỏ những yêu cầu đó. Sau này, được hỏi lý do viết bài báo nói trên, Phan Bội Châu trả lời: Đề huề chi mà đề huề
Oán thù ta hãy còn sâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què" (Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa, Hà nội, 2003).

3. Nhà giáo, sau này sáng lập trường Minh Tân, Thuận An ở Vinh

4. Hội Quảng Tri, còn gọi là hội Trí Tri ("Société d' Enseignement mutuel) là một hiệp hội dân lập với chủ trương quảng bá tân học gồm các đề tài khoa học như vệ sinh, phong tục, cùng các kiến thức mới lạ đến trí thức Việt Nam từ năm 1892 đến 1945. Hội Quảng Tri ở Vinh tập hợp hầu hết các trí thức hàng đầu ở Vinh đương thời.

5. Nhà sư phạm nổi tiếng, lúc bấy giờ là Đốc học trường Pháp - Việt Vinh, Hội trưởng Hội Quảng Tri Vinh

6. Tú tài, nhà giáo, soạn giả

7. Tức là Công sứ Pháp ở Vinh

8. Tức là bà Thái Thị Huyên, vợ cụ Phan Bội Châu, quê làng Diên Lãm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

9. Rút trong sách "Thanh khí nhẽ hằng"

10. Rút trong sách "Sào Nam Phan Bội Châu tiên sanh lịch sử Tấm lòng vì nước"

 

TS. Hồ Bất Khuất

 

Lũ lụt ở miền Trung đã diễn ra từ bao đời nay và ngày càng khó lường vì biến đổi khí hậu. Là một chính phủ kiến tạo, Chính phủ Việt Nam có vai trò phòng chống lũ lụt hiệu quả, khắc phục hậu quả nhanh chóng, bảo đảm điều kiện phát triển bền vững cho miền Trung.

Biết rõ, hiểu đúng về miền Trung

Căn cứ vào địa hình của đất nước, Việt Nam được chia thành 3 miền: Bắc, Trung  và Nam, hay còn được gọi là Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ. Miền Trung bao gồm 19 tỉnh, được chia làm 3 tiểu vùng: Bắc Trung bộ gồm có 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế; Duyên hải Nam Trung bộ gồm có 8 tỉnh và thành phố: Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận; Tây Nguyên gồm có 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Sở dĩ Tây Nguyên cũng được xếp vào miền Trung vì là những tỉnh nằm liền kề trong cùng một dải đất, chỉ khác là 5 tỉnh Tây Nguyên không giáp biển.

Hai vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ được gọi chung là Duyên hải miền Trung. Dãy núi Bạch Mã, nơi có đèo Hải Vân được coi là ranh giới giữa Bắc và Nam Trung bộ. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ có khi được gọi tắt là Nam Trung bộ. Điều này khiến một số người hiểu là Nam Trung bộ và Tây Nguyên là hai vùng riêng biệt, dẫn đến một số tài liệu cũng có cách gọi như vậy. Sự nhầm lẫn này không gây hại nhưng nó không rõ ràng, rành mạch nên cũng có lúc gây nên sự khó chịu cho những người ưa sự chính xác.

Các tỉnh miền Trung có diện tích 151.234 km² (chiếm 45,5%  tổng diện tích cả nước) với số dân 26.460.660 người (chiếm 27,4%  tổng dân số cả nước), mật độ dân số bình quân 175 người/km². Đây là vùng đất có tính chiến lược đối với Việt Nam, người dân ở đây cần cù, chịu khó, gan góc, dạn dày. Trong chiến tranh, quân và dân vùng đất này đã có những đóng góp lớn lao vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta. Trong thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế, miền Trung có nhiều lợi thế về vị trí và nguồn nhân lực, bao gồm: 17 cảng biển, 15 khu kinh tế, 22 khu công nghiệp, 2 khu chế xuất, 8 sân bay, 2 xa lộ xuyên Việt với hành lang kinh tế Đông - Tây và những dự án hàng chục tỷ USD.

Tuy nhiên, hiện nay các tiềm năng đó vẫn chưa phát huy được lợi thế kinh tế, chưa biến tiềm năng thành của cải vật chất. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là vùng này phát triển chậm và thường xảy ra thiên tai; lũ lụt đã từng gây thiệt hại lớn về người và tài sản, hủy hoại cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất. Do vậy, cần phải có sách lược và chiến lược hợp lý để miền Trung phát triển bền vững.

Miền Trung có lũ lụt thường xuyên, năm 2020 lũ lụt đặc biệt lớn

Miền Trung là dải đất dài, hẹp với dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, biển ở phía Đông; địa hình nghiêng về phía biển. Với địa hình như vậy, vùng đất này mỗi năm thường hứng chịu hàng chục cơn bão và lượng mưa vô cùng lớn. Do đó, vùng đất này có lũ lụt thường xuyên. Dưới sự tác động của biến đổi khí hậu, lũ lụt ở miền Trung càng ngày càng khó dự báo và tàn khốc hơn.

Lũ lụt miền Trung năm 2020 là liên tiếp những cơn bão và những trận mưa lớn, bắt đầu từ đêm ngày 06, rạng sáng ngày 07 tháng 10 năm 2020, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế của Bắc Trung bộ, một phần Nam Trung bộ gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Bắc Tây Nguyên; và chỉ tạm thời kết thúc vào ngày trung tuần tháng 11/2020 khi cơn bão 13 (Bão Vamco) tan, mưa cơ bản chấm dứt.

Lũ lụt miền Trung 2020 được xem là một đợt "lũ lụt lịch sử mới" (có mực nước vượt qua các mốc năm 1979, 1999), được đặt mức báo động IV - cấp bậc thiên tai nguy hiểm, rủi ro rất lớn của Việt Nam; gây tổn thất, thiệt hại nhiều cho toàn khu vực. Chỉ trong đợt mưa từ ngày 5 đến 12 tháng 10, tổng lượng mưa tại các tỉnh Hà Tĩnh, Bình Định trên 500mm, Quảng Trị có nơi 1.800mm, Quảng Nam 1.400mm. Đặc biệt, tại Thừa Thiên Huế có nơi đạt trên 2.000mm. Đây là lượng mưa rất lớn trong một thời gian ngắn, chỉ trong hơn 1 tuần, lượng mưa đã xấp xỉ bằng cả mùa mưa ở đây. Vì thế, ngập lụt gây thiệt hại nặng nề là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, năm nay hiện tượng lở đất diễn ra khốc liệt ở nhiều nơi gây thiệt hại lớn về người, kể cả những người đi cứu hộ, cứu nạn.

Theo một số chuyên gia, lũ lụt, lở đất ở miền Trung gây hậu quả nặng nề, ngoài nguyên nhân khách quan là địa hình dốc, mưa nhiều thì có cả nguyên nhân chủ quan. Đó là việc có quá nhiều nhà máy thủy điện vừa và nhỏ trên địa bàn. Đa số các hồ nhỏ, đập tràn tự do và không có dung tích phòng lũ. Một số hồ lớn như Sông Tranh, Quảng Trị, A Vương, A Lưới... có dung tích phòng lũ chỉ ở khoảng 30 - 150 triệu m3. Các hồ này hiện đều duy trì mức đón lũ để làm chậm, giảm lũ hạ du. Tuy nhiên, vì dung tích khá khiêm tốn nên hiệu quả cắt lũ chưa cao, nhất là khi "lũ chồng lũ".

Chính phủ đã thực hiện tốt vai trò trong phòng chống lũ lụt ở miền Trung

Nhân dân cả nước luôn hướng về miền Trung trong những ngày dải đất này bị chìm trong lũ lụt. Rất nhiều người góp tiền, góp sức để giúp đỡ đồng bào miền Trung. Tuy nhiên, để phòng chống lũ lụt ở miền Trung có hiệu quả, bảo đảm điều kiện để vùng đất này phát triển bền vững, vai trò của Chính phủ là vô cùng quan trọng. Chính phủ có vai trò lớn trong cả bốn hoạt động: 1. Dự báo, cảnh báo về tình hình mưa bão; 2. Chỉ đạo, điều hành vận hành các hồ đúng quy định, phối hợp với chính quyền địa phương để việc xả lũ không gây hại; 3. Cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ; 4. Khắc phục hậu quả, ổn định đời sống của nhân dân, khôi phục sản xuất.

Trên thực tế, Chính phủ hiện nay đang cố gắng thực hiện tốt vai trò của mình; việc dự báo tình hình bão lũ khá chính xác; cảnh báo đúng lúc, đúng mức độ; chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Đặc biệt, công tác cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ được tiến hành khẩn trương, có hiệu quả. Dưới sự điều hành của Chính phủ, bộ đội, công an không sợ gian khổ, hi sinh đã có mặt ở những nơi xung yếu, nguy hiểm nhất, nỗ lực cứu giúp đồng bào. Chính phủ quyết tâm không để người dân chịu đói, chịu khát; không có chỗ trú mưa, trú nắng; bị dịch bệnh đe dọa. Ngay từ cuối tháng 10/2020, Chính phủ đã quyết định tạm cấp 500 tỷ đồng, 1000 tấn gạo hỗ trợ khẩn cấp 5 tỉnh là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - mỗi tỉnh 100 tỷ đồng.

Sau đó, theo Quyết định 1815/QĐ-TTg ngày 15/11/2020, Thủ tướng Chính phủ quyết định tạm cấp 80 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2020 bổ sung kinh phí cho 3 địa phương gồm: Quảng Nam 20 tỷ đồng, Thừa Thiên-Huế 20 tỷ đồng, Quảng Trị 40 tỷ đồng để khắc phục thiên tai trên địa bàn. Tiếp theo, Quyết định 1823/QĐ-TTg ngày 17/11/2020, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính xuất cấp không thu tiền 4.303,465 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho các tỉnh: Hà Tĩnh 3.000 tấn gạo, Nghệ An 303.465 tấn gạo và Bình Định 1.000 tấn gạo để hỗ trợ cứu đói cho nhân dân vùng bị thiên tai, mưa lũ.

Tuy nhiên, chúng ta thấy vẫn có những bất cập. Đó là hậu quả do chính phủ khóa trước để lại với việc các thủy điện vừa và nhỏ có quá nhiều trong khu vực. Dù  đang còn tranh cãi, chưa thống nhất về việc thủy điện vừa và nhỏ có làm cho lũ lụt ở miền Trung trầm trọng hơn không, nhưng Thủ tướng Nguyên Xuân Phúc cũng cho rằng, cần phải hạn chế xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Mặc dù các quan chức Bộ Công thương luôn luôn khẳng định là các hồ thủy điện xả lũ đúng quy trình. Song, vấn đề ở chỗ quy trình đó có hợp lý hay không? Khi lũ lụt ở hạ lưu đang diễn ra, hồ chứa lại xả lũ thì dù có đúng quy định vẫn gây hại.

Mùa mưa lũ năm 2020 ở miền Trung tạm khép lại, Thủ tướng yêu cầu UBND các tỉnh kiểm tra, đánh giá, tổng hợp số liệu thiệt hại; kết quả thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; thực thi chính sách an sinh xã hội và khắc phục hậu quả, gửi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định mức hỗ trợ chính thức từ ngân sách trung ương cho ngân sách từng địa phương theo quy định. Song song với những việc đó, các tỉnh phải chủ động sử dụng ngân sách địa phương và các nguồn tài chính hợp pháp khác để thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn; khắc phục hậu quả thiên tai kịp thời, đảm bảo đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng chế độ quy định; tuyệt đối không để xảy ra tình trạng lợi dụng chính sách, sử dụng sai mục đích, tham nhũng, lãng phí.

Bước đầu, Chính phủ cũng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm từ việc phòng chống lũ lụt ở miền Trung. Trước hết, phương châm "4 tại chỗ" được đánh giá cao vì đã phát huy tác dụng tốt. Thứ hai, là phải cải thiện năng lực dự báo thiên tai và chủ động ứng phó, nhất là công nghệ dự báo trượt đất, hiện là một khâu yếu của chúng ta. Thứ ba, lồng ghép các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu vào các quy hoạch, kế hoạch phát triển. Lấy phòng là chính, nên cần thiết phải nâng cao năng lực dự báo. Thứ tư, khi đã qua giai đoạn hỗ trợ khẩn cấp thì chuyển sang giai đoạn hỗ trợ phục hồi, tái thiết như cây giống, con giống; khôi phục cơ sở hạ tầng như trường học, đường sá, cầu cống; làm vệ sinh môi trường, tẩy trùng để phòng dịch bệnh...

Thủ tướng Chính phủ cho biết, các tỉnh miền Trung sẽ được tiếp tục bổ sung thêm nguồn lực. Trong kế hoạch 2021-2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ bố trí nguồn lực để hỗ trợ các tỉnh miền Trung bằng cả nguồn ngân sách Nhà nước và ODA.

Một số dự định của Chính phủ để phòng chống lũ lụt ở miền Trung tốt hơn

Trong những ngày lũ lụt diễn ra, rất nhiều người quan tâm, hiến kế để hạn chế thiệt hại do lũ lụt gây ra trong tương lai. Chính phủ lắng nghe những ý kiến này và quan tâm đến những vấn đề mới mẻ. Đó là nghiên cứu để thành lập cơ quan cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ chuyên nghiệp. Điều này là có lý vì hiện nay đã có một số nước thành lập Bộ tình trạng khẩn cấp như Nga, Trung Quốc.

Chính phủ tiếp tục tổng kết thực tiễn trong quá trình chỉ đạo phòng chống thiên tai và kinh nghiệm quốc tế để tạo ra những mô hình phù hợp nhất đối với nước ta. Thực hiện quy định của Luật Phòng, chống thiên tai, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai và Ủy ban Quốc gia về ứng phó sự cố và tìm kiếm cứu nạn. Đây là hai cơ quan quan trọng, vừa phối hợp liên ngành, vừa có trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp; đồng thời thực hiện chức năng tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo các ngành, các địa phương. Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng (người trực tiếp lăn lộn trên hiện trường trong đợt lũ lụt ở miền Trung vừa qua), cần bổ sung thêm máy bay trực thăng chuyên dùng, tàu cứu hộ, cứu nạn, nhất là các tàu cứu hộ, cứu nạn xa bờ, tàu lớn chịu được sóng to, gió lớn; Thường xuyên tổ chức diễn tập ứng phó với loại hình thiên tai, sự cố khác nhau; Khẩn trương xây dựng Trung tâm điều hành quốc gia về phòng, chống thiên tai.

Dù đã nỗ lực rất lớn, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng thừa nhận, trong thời gian vừa qua công tác cứu hộ, cứu nạn vẫn còn những hạn chế về tính chuyên nghiệp; Phương tiện, trang thiết bị phục vụ ứng phó sự cố, thiên tai thiếu, chưa hiện đại, chưa đáp ứng được yêu cầu cụ thể nên chúng ta vẫn chịu thiệt hại khá nặng nề về người và tài sản.

Xuất phát từ tình hình này, đã có kiến nghị Việt Nam nên quan tâm đến việc áp dụng chính sách bảo hiểm với một số loại hình thiên tai khác nhau như, bảo hiểm con người, tài sản, cây trồng, vật nuôi... Hiện tại, thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa có bảo hiểm thiên tai. Nhưng là một Chính phủ kiến tạo, Chính phủ Việt Nam luôn luôn quan tâm tới tất cả các biện pháp có thể làm giảm thiệt hại do lũ lụt gây ra nên ở miền Trung, cũng như ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Lũ lụt ở miền Trung Việt Nam diễn ra hàng năm và ngày càng khó lường nhưng Chính phủ quyết tâm bảo đảm mọi điều kiện để khu vực này phát triển bền vững trong tương lai.

 

Nguyễn Khắc An

Năm 2020, một năm dày đặc những biến cố, dịch bệnh và thiên tai dồn dập, nhưng cũng là lần đầu tiên chúng ta được chứng kiến các hoạt động xã hội từ thiện diễn ra rộng khắp. Thật sự là một cuộc tổng ra quân tự nguyện trên phạm vi chưa từng có. Đôi khi có cảm giác cứ như lòng tốt của con người vừa được kích hoạt trở lại vậy.

Cây bút lỗi lạc, người để lại cho nhân loại tác phẩm văn học kinh điển "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer", ngài Mark Twain từng nói "Lòng tốt là thứ ngôn ngữ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy". Tôi không có ý định bàn về cuộc đời và sự nghiệp của Mark Twain, đó là một câu chuyện đầy hấp dẫn nhưng lại ngoài tầm hiểu biết. Trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ kỳ vọng đề cập về một khía cạnh của lòng tốt thông qua hoạt động thiện nguyện. Thiện nguyện và lòng tốt tất nhiên không cùng một khái niệm nhưng chúng hoàn toàn có thể chung nhau một hành trình. Nếu ngài Mark Twain khả kính coi lòng tốt là thứ ngôn ngữ của cuộc sống thì chúng ta cũng có thể xem từ thiện như là một thứ ngôn ngữ của lòng tốt. Người có lòng tốt không nhất thiết phải là người làm từ thiện, nhưng người làm từ thiện thì nhất thiết phải là người có lòng tốt.

Lòng tốt và sự thiện tâm có thể cư ngụ ngay trong những điều giản dị nhất. Xin được bắt đầu bằng một câu chuyện giản dị như vậy, tháng 4 năm 2020 cụ ông Hoàng Đình Bảy (86 tuổi), trú tại xã Hùng Tiến, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mù hai mắt và hưởng chế độ chất độc màu da cam đã tự mình mang 5 triệu đồng để góp thêm "cọng rau hạt muối" cho các cô các chú đang phải ở trong trại cách ly tập trung. Đây là số tiền trợ cấp chế độ chất độc da cam mà cụ đã phải nhịn nhiều thứ để dành dụm. Chưa hết, không phải là trường hợp duy nhất, ngay trong cùng tháng tư ấy, tại Cà Mau có 5 cụ gồm: Nguyễn Thị Phương, Võ Ánh Nguyệt, Nguyễn Thị Mười, Quách Thị Chao, và Phan Thanh Nhàn, cả 5 cụ đều là đối tượng bảo trợ xã hội, không nơi nương tựa, lại bị nhiễm chất độc hóa học từ thời chiến tranh. Các cụ đã lấy toàn bộ số tiền tiết kiệm bấy lâu để hỗ trợ đồng bào vùng đồng bằng sông Cửu Long bị thiệt hại do hạn hán. Vẫn chưa hết, trong một chương trình truyền hình về việc tử tế phát sóng năm 2019, hàng triệu người đã nghiêng lòng chứng kiến cụ bà 83 tuổi, người tự mình đã đạp xe lên ủy ban xã để trả lại "danh hiệu" hộ nghèo. Cái lý của cụ thật giản dị và trong sáng "Nhiều người khác còn nghèo hơn tôi. Tôi xin rút để nhường phần này cho họ". Thật không biết dùng lời lẽ nào để mô tả hết được những tấm lòng thơm thảo ấy.

Trở lại với cuộc chiến chống Covid, một em bé 10 tuổi nhịn ăn sáng để lấy tiền mua khẩu trang tặng bạn. Một doanh nhân đã sáng chế "máy ATM gạo" cho hộ nghèo, một em bé lớp 2 viết tâm thư gửi lên Phó Thủ trướng xin được nhường cơm sẻ áo… Cảm giác như câu khẩu hiệu "Xe chưa qua nhà không tiếc" thủa nào lại vọng về. Suy cho cùng thì cái tinh thần tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách mà chúng ta đang có không phải tự nhiên mà có. Đó chính là những phẩm chất tuyệt vời của người Việt được cộng dồn, được tích lũy ngàn đời cùng lịch sử, chỉ đến khi gặp biến cố nó mới khai nguồn để trào tuôn.

Rồi tháng 10 năm 2020, bão lũ cuồn cuộn dìm miền Trung trong biển nước. Bão chồng bão, lũ chồng lũ, tai họa chồng tai họa. Nhà trôi, ruộng vườn ngập trắng, những vụ lở đất kinh hoàng… và đau đớn hơn là hàng chục mạng người vĩnh viễn không trở về… Đất nước thêm một lần khổ đau, cả dân tộc lại nhất tề đứng dậy. Hai chữ "miền Trung" trở nên gần gũi, thân thương, thậm chí trong tâm trí của không ít người thì hai chữ ấy còn là mệnh lệnh, một thứ mệnh lệnh đến từ trái tim và lòng trắc ẩn. Hung tin thiệt hại thiên tai Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh… dội về đau thắt lòng mỗi người con đất Việt. Những bản tin nhức nhối tâm can, những lời kêu cứu trong đêm xé gan xé ruột và cả những dòng trạng thái đầm đìa nước mắt. Một lần nữa tình người lại trỗi dậy. Mất mát của một con người thành mất mát cộng đồng, nỗi đau của một vùng quê trở thành nỗi đau dằng dặc suốt chiều dài đất nước. Trước tổn thất nặng nề, sức mạnh riêng có của  dân tộc lịch sử 4 ngàn năm thêm một lần mạnh mẽ. Không ai bảo ai, tất cả đều hòa chung một giai điệu tình người, giai điệu của yêu thương và lòng nhân ái. Những chiếc bánh chưng gói vội, những vỉ thuốc, những thùng mì tôm, những bộ quần áo chứa chan tình người lại theo hành trình thiện nguyện lên đường. Trên quốc lộ 1 A từng đoàn xe nối đuôi nhau "hướng về miền Trung". Chỉ nghĩ đến thôi cũng đã đủ mặn mòi nước mắt. Tại cuộc họp Quốc hội ngày 9 tháng 11 năm 2020 Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã nghẹn ngào bày tỏ "Có đất nước nào trong thiên tai mà người dân thương nhau đến vậy?". Vâng, có đất nước nào như nước Việt mình không? Tấc áo mặc chung, bát cơm sẻ nửa. Nhà nhà làm từ thiện, người người làm từ thiện, làng làng làm từ thiện… Và trong những ngày khốc liệt, đẫm nước mắt nhưng cũng đầy tình yêu thương đó nổi lên một nhân vật nhận được sự tôn vinh và quan tâm đặc biệt của cộng đồng. Cô ca sĩ xinh đẹp vượt qua hiểm nguy, lăn lộn giữa vùng rốn bão ngay giữa đỉnh lũ. Thật tuyệt vời, có thể nói ở góc độ thiện nguyện thông qua cá nhân thì đây là trường hợp thành công nhất. Nhiều người lấy hình cô làm ảnh đại diện, người thì làm thơ tặng cô, sáng tác bài hát tặng cô. Không thể phủ nhận rằng cô ca sĩ xinh đẹp và giàu lòng nhân ái ấy đã thổi vào cộng đồng một làm gió thiện lành, một Thủy Tiên được cộng đồng gọi tên theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Ngày 24 tháng 11 vừa qua, cô ca sĩ xinh đẹp và giàu lòng nhân ái, người đứng tâm điểm của từ thiện cá nhân đã công khai "quyết toán" và tổng kết. Trong số hơn 177 tỷ đồng của quỹ ủng hộ miền Trung thì vợ chồng cô ủng hộ 3 tỷ 690 triệu. Cô cũng mạch lạc thông báo: "Xác nhận kèm sao kê ngân hàng tổng số tiền quỹ miền Trung là hơn 177 tỷ đồng, kèm biên bản xác nhận có mộc đỏ của chính quyền các cấp Tỉnh, Huyện, Xã số tiền mặt đã trao tận tay cho 61.532 hộ dân tổng là hơn 178 tỷ đồng cho 7 tỉnh miền Trung". Như vậy là rõ, những nghi ngờ bóng gió cơ bản đã được giải tỏa. Cảm ơn cô, cảm ơn những người đã đồng hành cùng cô.

Tuy nhiên xung quanh câu chuyện Thủy Tiên và cả "chiến dịch thần tốc" của hoạt động từ thiện xã hội vừa qua đã gợi cho chúng ta không chỉ vấn đề về quản lý hoạt động đang ngày càng lan tỏa này. Thứ tư duy "không quản được thì cấm" đã quá lạc hậu. Cấm cản cá nhân đứng ra tổ chức làm từ thiện đã không còn phù hợp với thực tiễn. Việc này không những làm hạn chế khả năng huy động nguồn lực xã hội mà còn làm chậm quá trình tiếp cận nguồn từ thiện của các đối tượng thụ hưởng. Nhưng nếu không cấm thì quản ra sao? Để cho hoạt động từ thiện cá nhân "trăm hoa đua nở" liệu có ổn không? Năm nay có 1 người đứng ra huy động, nhưng năm tới 10 người, trăm người, thậm chí ngàn người cùng sẵn sàng đứng ra huy động quyên góp thì sao? Có bao nhiêu người trong số đó sẽ "quyết toán" mạch lạc như ca sĩ Thủy Tiên? "Thả rông" hoạt động từ thiện nếu không may "vỡ trận" ví dụ như kẻ xấu trà trộn vào huy động rồi ôm tiền bỏ chạy thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Đấy là câu chuyện của quản lý. Quản lý là chủ động dẫn dắt chứ không phải chạy theo sự vụ. Quản lý xã hội sẽ là tệ hại nếu cứ chờ xảy sự mới nhảy vào. Câu ngạn ngữ "mất bò mới lo làm chuồng" rất đáng cho các nhà quản lý lưu giữ trong "ổ cứng" để tự răn dạy mình.

Hoạt động từ thiện theo mô hình "trăm hoa đua nở" có nhiều ưu điểm đó là nhanh, hiệu ứng lan tỏa tốt, khả năng huy động nguồn lực xã hội rất cao và thông qua đó cũng góp phần bồi trúc lòng nhân ái, tình yêu thương đồng bào cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ. Nhưng cũng từ mô hình này mà nảy sinh câu chuyện nơi thừa nơi thiếu, thứ thừa thứ thiếu, cái cần thì không có cái có thì… chưa cần. Làm từ thiện kiểu chạy theo hiệu ứng số đông tất nhiên sẽ dẫn đến lộn xộn và lãng phí. Vừa rồi, dù rất đau lòng bởi đồng bào miền Trung nhưng cũng khó mà nhịn được cười với dòng trạng thái tếu táo "Tóc em xoăn lắm rồi, đừng gửi mì tôm nữa". Có một thời mì tôm như là "từ điển" của cứu trợ. Ở Nghệ An, bà con xúm nhau lại cả làng để nấu bánh chưng. Thấy bánh chưng "hay" mọi nơi lại ào ào củi lửa mà ít biết rằng vẫn đề an toàn thực phẩm không phải lúc nào cũng chiều theo lòng tốt. Cha ông có câu, "Của cho không bằng cách cho". Cho không có nghĩa là bố thí, cho cũng không phải là ban ơn, cho lại càng không liên quan gì đến miệt thị. Cho đi là một cách để nhận lại, cho là sự chia sẻ. Người cho cần biết rằng mình đang cho ai? Nên cho họ vào lúc nào? Cần cho họ bao nhiêu, và cho họ để làm gì? Ai đó vừa khuyên rất chí lý rằng đừng cho họ con cá mà hãy cho họ cái cần câu. Đúng là vậy nhưng khổ nỗi là có phải ai cũng biết câu đâu. Lại nói lá lành đùm lá rách là truyền thống cực kỳ quý giá, đúng rồi, nhưng cách đùm có quan trọng không?

Ngay cả câu chuyện xung quanh từ thiện của ca sĩ Thủy Tiên cũng phải nào đâu suôn sẻ hết. Bên cạnh người vui vì nhận được quà thì cũng có kẻ rơi nước mắt vì bị tổn thương cơ mà. Dân mạng chia phe để công kích nhau. Ai đó vừa chế câu "Thu đi để lại lá vàng/ T đi để lại cả làng cãi nhau". Đây là diễn biến đáng tiếc xuất phát từ hoạt động từ thiện cá nhân mà cơ quan quản lý cần lập tức nghĩ đến khả năng khắc phục. Mục đích của từ thiện là tạo nên lòng yêu thương chứ không phải là sự chia rẽ.

Đằng sau từng câu chuyện đựng đầy yêu thương ấy đã bắt đầu bộc lộ những bất cập đáng kể. Nghị định 64/2008 về quyên góp hỗ trợ đã không còn bao quát hết được những những vấn đề mới nảy sinh. Hình ảnh của một số cá nhân làm thiện nguyện có khi đã bị lợi dụng cho những mục đích ít trong sáng với một thái độ hằn học. Cá biệt còn có cả những người dùng những con số huy động cá nhân để miệt thị các tổ chức hoạt động thiện nguyện chính thống. Hai chữ "lòng tin" được họ dùng để chì chiết ở không ít diễn đàn. Thật ái ngại khi đánh giá quá cao vai trò của một cá nhân mà lại quên đi công sức lớn lao cộng đồng. Hàng ngàn tỷ đồng khắp cả nước vẫn thầm lặng về với miền Trung. Trong kho tàng dân gian Việt Nam không khó để bắt gặp những câu ngạn ngữ như: "Thương người như thể thương thân; Một giọt máu đào hơn ao nước lã; Lá lành đùm lá rách; Một miếng khi đói bằng một gói khi no; Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Chia ngọt sẻ bùi; Nhường cơm sẻ áo; Môi hở răng lạnh; Máu chảy ruột mềm; Hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa; Thương người như thể thương thân"... Có thể khẳng định chắc chắn rằng: Chính truyền thống nhân ái ngàn đời của dân tộc này sản sinh ta những cá nhân có lòng nhân ái như vừa rồi chứ không phải ngược lại! Tất cả đều yêu những hình ảnh cá nhân đẹp đẽ, đó là quyền của chúng ta, nhưng không ai được phép vì tình yêu ấy mà tổn thương tới đồng bào.

Mọi hoạt động trên lãnh thổ quốc gia này đều phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, đó là điều bất di bất dịch. Không ai được đứng trên hay đứng ngoài pháp luật. Thủ tướng Chính phủ vừa đã có chỉ đạo các cơ quan chuyên môn khẩn trương tham mưu ban hành Nghị định mới thay cho quy định cũ đã không còn phù hợp nữa. Cầu thị và linh hoạt, đây là động thái hợp lý, hợp tình của một "Chính phủ kiến tạo".

Gút lại vấn đề thì cũng là câu chuyện của từ thiện cá nhân và từ thiện tổ chức. Cần chấn chỉnh ngay những hạn chế của tổ chức từ thiện chính thống. Hầu hết các bình luận "ngược chiều" trên mạng đều không mấy thiện cảm với các tổ chức từ thiện bởi nhiều chậm trễ và ít minh bạch. Tại sao từ thiện cá nhân làm được như vậy, vì họ có có khả năng tạo cảm xúc tức thì. Tiền vừa gửi vào tài khoản, mở mạng lập tức thấy ngay người thay mặt mình ngồi trên mũi thuyền phân phát cho bà con. Người đóng góp như cảm nhận được một cách rõ ràng đồng tiền của mình đang được trao cho bà con ngay giữa cái nơi cần nhất, đúng giữa cái lúc thiếu thốn nhất. Mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng rõ ràng cảm xúc là thứ mà các tổ chức từ thiện chính thống cần phải tham khảo cách làm của từ thiện cá nhân. Ngay cả lúc này, khi phép cộng "đầu vào" của các tổ chức từ thiện chính thống vẫn chưa xong thì cô ca sĩ xinh đẹp đã công khai "quyết toán thu chi" hết cả rồi. Đấy là ưu điểm và chính ưu điểm ấy tạo nên thế mạnh của từ thiện cá nhân. Từ thiện cá nhân cần được bảo vệ, hỗ trợ, ghi nhận và tôn vinh. Hỗ trợ từ thiện cá nhân không phải để tranh công mà là để giúp từ thiện cá nhân tốt hơn, hiệu quả hơn, hình ảnh cá nhân càng lan tỏa hơn.

Thiết nghĩ từ thiện của tổ chức cần phải cải tổ, phát huy những ưu điểm và thế mạnh sẵn có đồng thời khắc phục những nhược điểm "chết người" thâm căn cố đế mấy mươi năm nay. Nhanh hơn, minh bạch hơn, cảm xúc hơn, hãy làm cho mọi người quan sát được dòng chảy của đồng tiền. Mô hình từ thiện tổ chức và mô hình từ thiện cá nhân nên song song tồn tại. Không hẳn để cạnh tranh mà là động lực để hỗ trợ nhau, bù đắp cho những khiếm khuyết của nhau. Cần phát hiện, lên án, tiến tới bài trừ bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào trục lợi từ thiện. Mọi ý đồ tranh thủ từ thiện để mưu cầu cá nhân, đánh bóng tên tuổi đều đáng để xã hội khước từ. Từ thiện không phải là mảnh đất cho kẻ xấu ký sinh. Từ thiện nhất thiết phải là nơi hội tụ của lòng nhân ái. Từ thiện, hãy là ngôn ngữ của lòng tốt.

Hồng Bắc

Đặt vấn đề

Thị xã Hoàng Mai là đô thị loại IV trực thuộc tỉnh Nghệ An; được thành lập theo Nghị quyết 47/NQ-CP ngày 03 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ; trên cơ sở tách một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Quỳnh Lưu. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của vùng Nam Thanh-Bắc Nghệ, Hoàng Mai là một trong ba cực tăng trưởng, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội của tỉn. Quyết định 5721/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Hoàng Mai đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030, định hướng phát triển của Hoàng Mai đặt trong mối quan hệ tương hỗ và trao đổi lợi thế của vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ. Trong đó phát triển kinh tế thị xã Hoàng Mai từng bước theo hướng  "đô thị biển". Tận dụng lợi thế biển để Hoàng Mai thu hút các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Đây là cơ sở để Hoàng Mai xây dựng đề án chiến lược trong phát triển kinh tế trong công cuộc đổi mới hiện nay.

2. Tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của vùng Nam Thanh - Bắc Nghệ, thị xã Hoàng Mai có vị trí địa kinh tế thuận lợi. Đi qua thị xã có hệ thống giao thông đường bộ: Quốc lộ 1A, đường cao tốc Bắc Nam, tuyến đường Nghi Sơn - Cửa Lò, Quốc lộ 48D nối miền Tây Nghệ An và giao thông đường sắt Bắc - Nam; tạo sự kết nối cả nội tỉnh và các vùng trong cả nước. Hơn thế nữa, đô thị này có dòng Mai Giang (thuộc kênh nhà Lê) bao bọc, chảy ra biển theo hai cửa sông, tạo điều kiện để thị xã xây dựng và phát triển cảng cá ở phường Quỳnh Phương và cảng nước sâu Đông Hồi. Kênh nhà Lê chảy qua thị xã nối thông từ kinh đô Hoa Lư đến đèo Ngang được xem tuyến đường thủy đầu tiên ở Việt Nam, được đào từ thời vua Lê Hoàn dùng để vận tải quân lương về phía nam Đại Cồ Việt nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ và phát triển nền nông nghiệp nước nhà. Hoàng Mai cũng là vùng đất sở hữu đầy đủ các hình thái địa hình tự nhiên, trung du kết hợp đồng bằng ven biển, với hệ thống sông ngòi dày đặc, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp cùng bề dày truyền thống văn hóa đặc sắc… nên có nhiều lợi thế trong phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái biển và du lịch tâm linh. Với 18km bờ biển, trong đó có vùng nước sâu ven bờ Đông Hồi và Lạch Cờn là cửa sông lớn để tàu thuyền ra vào, neo đậu. Nơi đây có tiềm năng lớn về đánh bắt, nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản và dịch vụ hậu cần nghề cá. Hoàng Mai có nhiều lợi thế trong phát triển công nghiệp và du lịch gắn với biển. Vì vậy kinh tế biển là một trong những mục tiêu mà thị xã Hoàng Mai hướng đến trong tương lai gần.

Những năm gần đây, nhờ có các giải pháp hợp lý nên Hoàng Mai đã từng bước vươn lên trở thành một trong những trọng điểm về phát triển nghề cá vùng Bắc Trung bộ.

Về khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ, hải sản, thực hiện chính sách khuyến khích của Nhà nước, năng lực khai thác đánh bắt của bà con ngư dân ngày càng tăng lên đáng kể. Đội tàu khai thác hải sản phát triển nhanh theo hướng hiện đại. Tính đến cuối năm 2019, toàn thị xã có 956 tàu khai thác hải sản với tổng công suất là 224.800 CV (công suất bình quân đạt 235CV/tàu). Trong đó: 456 chiếc có công suất trên 90CV, tăng 92 chiếc so với năm 2013; 201 chiếc công suất từ 20CV-90CV, tăng 21 chiếc so với năm 2013; và 299 chiếc công suất dưới 20CV, giảm 123 so với năm 2013. Sản lượng khai thác năm 2019 đạt 47.786 tấn, tăng 66,61% so với năm 2013, đạt 119,47% chỉ tiêu năm 2020.

Bên cạnh đó, năng lực chế biến và kho bãi của người dân thị xã Hoàng Mai ngày càng nâng cao, không chỉ thu mua và chế biến hải sản tại địa phương mà còn có thể đảm bảo thu mua từ các tỉnh khác để chế biến. Thị xã đã xây dựng được mô hình chế biến thủy hải sản theo chuỗi khép kín ở xã Quỳnh Lập; mô hình chuỗi liên kết sản xuất gắn tiêu thụ sản phẩm chất lượng như: Cá thu cắt khúc, Mực 1 nắng ở phường Quỳnh Phương, phường Quỳnh Dị; Xây dựng nhãn hiệu chứng nhận: Hải sản Hoàng Mai, Nước mắm Quỳnh Dị (thay thế nhãn hiệu nước mắm Phú Lợi). Đến nay, có 01 sản phẩm cá trích phi lê của công ty CP Biển Quỳnh được UBND tỉnh công nhận đạt 4 sao theo tiêu chuẩn OCOP. Thành lập Hợp tác xã Khai thác dịch vụ chế biến hải sản làng nghề Phú Lợi, phường Quỳnh Dị. Thu hút đầu tư dự án Nhà máy chế biến nông sản, thủy sản Nghi Sơn Foods Group tại xã Quỳnh Vinh với tổng vốn đầu tư hơn 86 tỷ đồng...

Thị xã đã đầu tư 15 tỷ đồng xây dựng hạ tầng 3 vùng nuôi tôm an toàn sinh học theo tiêu chuẩn Vietgap tại các xã Quỳnh Xuân, Quỳnh Dị, Quỳnh Lộc; tích cực chuyển giao ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất thành công tảo xoắn, giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng chất lượng chất lượng cao... đáp ứng nhu cầu của thị trường khu vực.

Về cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, thị xã đã đầu tư xây dựng cảng cá Quỳnh Phương, đầu tư mở rộng khu neo đậu tránh trú bão Lạch Cờn với tổng kinh phí 153,3 tỷ đồng. Hiện trên địa bàn có 12 xưởng đóng mới, sửa chữa tàu cá đáp ứng yêu cầu phát triển đóng mới, cải hoán, sửa chữa tàu cá cho ngư dân trên địa bàn. Trong 06 năm, đã đóng mới 85 tàu cá công suất trên 400CV với tổng kinh phí trên 820 tỷ đồng; sửa chữa, cải hoán hàng trăm tàu các loại. Hệ thống các cơ sở cơ khí sửa chữa máy tàu, sản xuất đá lạnh, cung cấp xăng dầu, ngư lưới cụ, thiết bị an toàn hàng hải, hệ thống kho bảo quản đông lạnh... cơ bản đáp ứng nhu cầu của ngư dân.

Hoàng Mai còn là địa phương có nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh (trong đó có 6 di tích đã được xếp hạng quốc gia, 7 di tích  cấp tỉnh) có khả năng phát triển thành các sản phẩm du lịch hấp dẫn. Có thể kể đến: Đền Cờn (phường Quỳnh Phương-được xem là nơi linh thiêng bậc nhất của xứ Nghệ); Đền Vưu (xã Quỳnh Vinh) thờ Uy minh Vương Lý Nhật Quang; Đền Xuân Úc (xã Quỳnh Liên) thờ tướng Đặng Tế;…

Cùng với di tích lịch sử văn hóa, vùng ven biển Hoàng Mai có nhiều lễ hội dân gian, truyền thống. Các lễ hội còn giữ được những nét văn hóa riêng từng vùng miền, tái hiện những phong tục tập quán gắn với cuộc sống của người dân vùng biển, có sức hấp dẫn, thu hút khách du lịch như: lễ hội đền Cờn, đền Hạ, đền Phùng Hưng, đền Xuân Hòa,… Trong đó nổi bật hơn cả là lễ hội đền Cờn, là lễ hội có quy mô lớn nhất, cổ xưa nhất, giàu bản sắc nhất và có thời gian tổ chức dài nhất so với các lễ hội khác của Nghệ An. Đến với lễ hội đền Cờn vào dịp đầu Xuân, du khách có thể thưởng ngoạn di tích, tham gia nhiều hoạt động văn hóa dân gian cổ truyền được phục dựng lại với các lễ tế: tế trầu, tế trâu, tế bánh, tế nữ quan,…

Có thể nói rằng Hoàng Mai đã hội đủ các yếu tố để phát triển du lịch tâm linh, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch biển, du lịch làng nghề... Hữu xạ tự nhiên hương, hàng năm, có hàng vạn du khách đã tìm về thị xã để tham quan, khám phá và nghỉ dưỡng.

Ý thức rõ những tiềm năng, lợi thế của mình, những năm qua, thị xã Hoàng Mai đã không những đưa ra các giải pháp để biến các giá trị tiềm tàng này trở thành những hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực. Theo đó, thị xã đã không ngừng triển khai, hoàn thiện hạ tầng cơ sở, hạ tầng du lịch một cách đồng bộ; thúc đẩy các loại hình dịch vụ, thương mại, vận tải, ăn uống, nhà nghỉ, khách sạn, y tế, bưu chính viễn thông, ngân hàng... của thị xã phát triển, đáp ứng yêu cầu của du khách.

Tính đến nay trên địa bàn thị xã đã có 20 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó 1 khách sạn 3 sao và 1 tổ hợp khách sạn 4 sao; Lượng khách đến thị xã tăng nhanh, năm 2019 ước đạt trên 5,8 vạn lượt khách, doanh thu đạt 601,350 tỷ đồng.

Khai thác tốt tiềm năng sẵn có, thời gian qua, Hoàng Mai cũng không ngừng tìm tòi, hướng tầm nhìn phát triển các sản phẩm du lịch mới, mang tính đặc thù như du lịch sinh thái, dịch vụ thể thao trên biển (lặn biển, câu cá, câu mực trên biển)... Thị xã cũng đã và đang kết hợp du lịch biển, du lịch sinh thái với các hoạt động văn hóa tâm linh để xây dựng thành những tour du lịch đa sắc màu, kết nối các "đặc sản văn hóa" có riêng của thị xã.

3. Khó khăn trong phát triển kinh tế biển Hoàng Mai hiện nay

Bên cạnh lợi thế, Hoàng Mai cũng đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức. Khó khăn lớn nhất là thời tiết không thuận lợi. Hàng năm ngư dân chỉ ra khơi bám biển có 6 tháng. Sáu tháng còn lại mưa bão, lũ lụt, cướp đi hàng ngàn tỷ đồng tiền đầu tư và cả tính mạng con người.

Biển Hoàng Mai giàu tiềm năng nhưng môi trường không thuận lợi do nằm trong vùng Vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đang có sự tranh chấp về chủ quyền. Các thế lực nước ngoài thường xuyên ngăn cản, quấy phá hoạt động đánh bắt của ngư dân Việt Nam.

Phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại khai thác bờ biển và thềm lục địa còn nhiều hạn chế. Số tàu dưới 20CV tham gia khai thác hải sản gần bờ giảm nhưng còn chiếm tỷ lệ cao; vẫn còn tình trạng ngư dân vi phạm các quy định về chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); Cơ sở hạ tầng kỹ thuật vùng biển và ven biển như: Cầu cảng, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão, hệ thống giao thông chưa kết nối, hiệu quả sử dụng chưa cao. Dịch vụ hậu cần ngoài khơi và ven bờ chưa phát triển, thiếu đồng bộ.

Các cơ sở hạ tầng vùng nuôi tôm còn nhiều bất cập. Nhiều vùng nuôi chưa có kênh cấp, tiêu nước riêng biệt, chưa có khu xử lý nước thải tập trung, môi trường vùng nuôi tôm bị ô nhiễm; dịch bệnh trên tôm vẫn còn diễn biến phức tạp nhưng chưa có biện pháp phòng trừ hiệu quả.

Chưa có khu dịch vụ, chế biến thủy sản tập trung. Công nghệ chế biến thủy hải sản còn lạc hậu, thủ công; sản phẩm chủ yếu là sơ chế thô nên chất lượng, giá trị thấp phần lớn tiêu thụ ở thị trường nội địa, một số xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc, Lào nhưng thị trường không ổn định.

 Lực lượng lao động khai thác trên biển thiếu; trình độ, kinh nghiệm khai thác của một bộ phận thuyền viên còn hạn chế. Một số làng chài thiếu lao động đi biển vì thu nhập của lao động trên các tàu thuyền còn thấp, bấp bênh.

Có nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan nhưng chủ quan là cơ bản. Hoàng Mai chưa có quy hoạch dài hạn để phát triển kinh tế biển. Vẫn tư duy theo lối mòn, nên chưa có cơ chế chính sách đột phá. Hoàng Mai đang lệ thuộc vào sự hỗ trợ của tỉnh Nghệ An. Vì vậy chưa mời gọi được các nhà đầu tư lớn làm ăn trên địa bàn. Ngân sách đầu tư của Nhà nước và doanh nghiệp, người dân chưa đủ mạnh. Đầu tư dàn trải, manh mún, tư duy ngắn hạn. Hoàng Mai đã từng vỡ mộng về một khu kinh tế tầm cỡ khu vực không hình thành. Người dân và doanh nghiệp thiếu niềm tin, thậm chí hoang mang và do dự. Đầu tư phát triển kinh tế biển chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Đó là những vấn đề môi trường, an ninh quốc phòng, việc làm, thu nhập cho người dân... Không gian kinh tế của Hoàng Mai rất chật hẹp. Thị xã nằm trên đường quốc lộ. Dân cư đông. Sau lưng là núi, phía trước là biển. Thị xã mới được quy hoạch mà đất đai đắt đỏ. Để tiếp cận nguồn lực này không dễ dàng. Đó là chưa kể đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ cho kinh tế biển. Nếu xác định công nghiệp, dịch vụ và du lịch là trụ cột thì Hoàng Mai còn quá nhiều thách thức.

4. Đâu là giải pháp mang tính "đột phá" để Hoàng Mai  trở thành đô thị biển

Mục tiêu phát triển: Trong giai đoạn từ 2020 - 2025, Hoàng Mai được tỉnh định hướng trở thành một đô thị biển gắn với du lịch, dịch vụ, thương mại, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng... kết hợp giữ vững quốc phòng - an ninh trên biển và chủ quyền biển đảo gắn với bảo vệ môi trường biển. Trong bối cảnh hội nhập nên chăng Hoàng Mai hãy chọn cho mình một hướng đi riêng. Hoàng Mai nên từ bỏ tư duy phát triển một nền kinh tế toàn diện. Đây là bài toán khó nhưng không thể không làm. Nếu coi thế mạnh của Hoàng Mai là biển, thì phải dồn lực đầu tư cho kinh tế biển. Thị xã Hoàng Mai trong tương lai gần sẽ trở thành đô thị biển. Về mặt khoa học cần xác định các đặc trưng của đô thị biển. Ở nước ta có nhiều đô thị biển như Tp. Hạ Long, Tp. Đà Nẵng. Vậy Hoàng Mai có thể trở thành Đà Nẵng hay Hội An trong tương lại không?

Về quy hoạch vùng và tiểu vùng kinh tế, trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch phát triển KT-XH của thị xã,... tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế biển và quy hoạch ngành thủy sản phù hợp với tình hình thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của thị xã. Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế biển và ven biển, trong đó ưu tiên phát triển các lĩnh vực kinh tế thị xã có thế mạnh, cụ thể:

Trước mắt cần xây dựng cảng Đông Hồi thành cảng nước sâu, cung cấp dịch vụ cho tàu bè nước ngoài. Cảng Đông Hồi là điểm nhấn vừa phát triển công nghiệp, dịch vụ và du lịch. Khôi phục các làng chài ven biển nhằm thu hút du khách.

Thu hút các dự án đầu tư xây dựng cảng cá Quỳnh Lập, nạo vét luồng lạch cửa Lạch Cờn, xây dựng các khu dịch vụ hậu cần nghề cá tập trung; đẩy nhanh tiến độ thi công khu tránh trú bão Lạch Cờn; Tăng cường công tác quản lý tàu cá; thực hiện nghiêm các quy định chống khai thác bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); gắn khai thác với phát triển du lịch biển, bảo vệ môi trường sinh thái, nguồn lợi thủy sản và bảo vệ an ninh quốc gia trên biển; Thành lập các HTX dịch vụ, khai thác hải sản liên kết sản xuất theo chuổi khai thác - chế biến - tiêu thụ sản phẩm cho bà con ngư dân; Khuyến khích đầu tư nâng công suất và hiện đại hóa đội tàu khai thác hải sản xa bờ, giảm dần số lượng tàu thuyền có công suất nhỏ khai thác gần bờ; tiếp tục đẩy mạnh công tác chuyển đổi nghề khai thác, tăng tỷ trọng sản phẩm có giá trị xuất khẩu.

Hoàn thiện môi trường đầu tư. Muốn thu hút đầu tư cần hoàn thiện môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, cởi mở, trong đó cải tạo cơ sở hạ tầng phải là khâu đột phá. Trước mắt khu nuôi trồng thủy sản thị xã Hoàng Mai đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 5282/QĐ-UBND ngày 28/10/2016. Quan tâm công tác quy hoạch và xây dựng khu dịch vụ hậu cần nghề cá và chế biến thủy sản tập trung; Quan tâm công tác xúc tiến thương mại, xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm để mở rộng thị trường tiêu thụ, hướng tới xuất khẩu; Tiếp tục phát triển sản phẩm được công nhận đạt chuẩn OCOP tạo cơ sở mở rộng phát triển thương hiệu đặc sản địa phương... Thu hút đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng du lịch biển theo quy hoạch, gắn du lịch biển với du lịch tâm linh, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng và các di tích lịch sử Quốc gia; khuyến khích đầu tư xây dựng trọng điểm các bãi tắm: Quỳnh Lập, Quỳnh Phương và Quỳnh Liên; nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ nhà hàng khách sạn gắn với công tác bảo tồn các khu di tích lịch sử như: đền Cờn, đền Xuân Úc và các lễ hội truyền thống,... Xây dựng kết cấu hạ tầng biển và ven biển: Tập trung thu hút đầu tư xây dựng dự án: Xây dựng cảng cá Quỳnh Lập; nạo vét cửa Lạch Cờn; đầu tư, cải tạo nâng cấp hạ tầng vùng nuôi tôm công nghiệp Hoàng Mai. Ưu tiên bố trí vốn đẩy nhanh tiến độ thi công hoàn thành các dự án: nâng cấp, cải tạo nạo vét sông Mai Giang đoạn đi qua Mai Hùng, Quỳnh Xuân, Quỳnh Liên; cải tạo, nâng cấp kênh nhà Lê đoạn qua khu công nghiệp Hoàng Mai đến Lạch Cờn; công trình kè chống sạt lỡ, tu bổ sông Hoàng Mai, thị xã Hoàng Mai; xây dựng tuyến đê biển và trồng cây chắn sóng vùng Đông Hồi, Quỳnh Lập, Quỳnh Liên, Quỳnh Phương.

Cải tạo môi trường đô thị và môi trường biểnphòng chống thiên tai: Làm tốt công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ hệ sinh thái ven biển, hạn chế và ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường; kiên quyết ngăn chặn và xử lý nghiêm tình trạng khai thác thủy hải sản mang tính hủy diệt trái với quy định; làm tốt công tác trồng rừng và bảo vệ rừng ven biển, rừng ngập mặn; nâng cao nhận thức của nhân dân nhằm góp phần bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản. Xây dựng hệ thống cứu hộ, cứu nạn và cảnh báo thiên tai đủ năng lực bảo đảm an toàn về tính mạng và tài sản của nhân dân trong mùa mưa bão hoặc khi có thiên tai xảy ra.

Không gian kinh tế Hoàng Mai phát triển theo chiều sâu, từng bước hiện đại và đồng bộ. Có nghĩa là cần lựa chọn những ngành có giá trị gia tăng cao, không ô nhiễm môi trường, không tốn kém nhiều đất đai. Hạn chế khai thác tài nguyên đá. Nông nghiệp phải là nông nghiệp sạch. Công nghiệp phải sử dụng công nghệ cao. Khu vực quản trị hành chính phải số hóa. Hạn chế tuyển dụng nhiều lao động. Đô thị du lịch biển cần quan tâm bảo vệ môi trường, cảnh quan. Thị xã đã và đang đẩy mạnh phát triển theo định hướng này, đó là phát triển Hoàng Mai trở thành một đô thị biển gắn với du lịch, dịch vụ, thương mại, giáo dục, y tế, tài chính, ngân hàng để đón đầu sự phát triển vùng Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An.  Hy vọng với những giải pháp hỗ trợ, Hoàng Mai sẽ có những hướng đi mới hiệu quả, thu hút được nhiều nhà đầu tư, giúp Hoàng Mai phát triển kinh tế biển bền vững và sớm trở thành đô thị du lịch biển, trọng điểm kinh tế văn hóa nơi địa đầu xứ Nghệ đúng với mục tiêu và tiềm lực sẵn có.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thị xã Hoàng Mai lần thứ II nhiệm kỳ 2020-2025.

2. Quyết định 5721/QĐ-UBND ngày 7 tháng 12 năm 2015 của UBND tỉnh Nghệ An về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thị xã Hoàng Mai đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030.

3. Báo cáo Kết quả 06 năm thực hiện Đề án phát triển Kinh tế biển giai đoạn 2014-2015, có tính đến năm 2020 của UBND thị xã Hoàng Mai.

 

Lê Văn Phong

Nghệ An(1) là mảnh đất địa linh nhân kiệt, giàu truyền thống văn hóa, văn hiến và đấu tranh cách mạng. Phát huy những thành tích đạt được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghệ An tiếp tục góp phần xứng đáng của mình vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21-7-1954), thực hiện âm mưu xâm lược của mình, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào thế chân Pháp xâm lược Việt Nam và Lào. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", trong gian khổ khó khăn, tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào lại được phát huy cao độ. Nhân dân Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng lại kề vai sát cánh cùng nhân dân Lào chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ.

Tháng 5-1959, trước âm mưu tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng Lào của Mỹ và phái hữu, Tiểu đoàn 2(2) Quân đội Pathét Lào tiến hành phá vây sang đất Nghệ An xây dựng và củng cố lực lượng. Để giúp Tiểu đoàn 2 Quân đội Pathét Lào vượt qua khó khăn, Bộ Quốc phòng Việt Nam lệnh cho Quân khu 4(3) "tổ chức ngay lực lượng, khẩn trương mở đường máu vượt tuyến đánh địch, đón và bảo vệ bằng được Tiểu đoàn 2 về căn cứ an toàn (căn cứ tạm trên đất huyện Tương Dương - Nghệ An)"(4). Triển khai nhiệm vụ, tỉnh Nghệ An cử nhiều đơn vị bộ đội tham gia giải vây cho Tiểu đoàn 2. Không những vậy, tỉnh Nghệ An còn được giao nhiệm vụ quan trọng là "đảm bảo tiếp tế hậu cần kịp thời cho bạn từ hướng Tây Nghệ An (Tương Dương)"(5).

Trên tinh thần "nhường cơm xẻ áo", đồng bào các dân tộc Nghệ An trong vùng đã tích cực chuẩn bị lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men sẵn sàng đón tiếp Tiểu đoàn 2 Quân đội Pathét Lào. Khi cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 đặt chân tới đất Nghệ An, họ được các tầng lớp nhân dân nhiệt tình chào đón. Trong không khí ấm cúng, họ như được trở về quê hương mình "Các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn như Thao Tu, Thoong Xa Vặt, Chăm Niên xúc động không cầm được nước mắt khi gặp lại các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Quân khu 4 và của tỉnh Nghệ An"(6). Đặc biệt, trong quá trình vượt vây sang Nghệ An, vợ một chiến sĩ trong tiểu đoàn sinh con tại bản Hòa Bình (vùng Cửa Rào - Tương Dương). Để ghi nhớ sự giúp đỡ của nhân dân Nghệ An, chị đã đặt tên cho cháu là Hòa Bình. Có thể nói, sự kiện Tiểu đoàn 2 phá vây sang củng cố và xây dựng lực lượng trên đất Nghệ An đã góp phần thắt chặt tình đoàn kết gắn bó giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói chung và nhân dân Nghệ An với cách mạng Lào nói riêng, điều đó nói lên vai trò quan trọng của Nghệ An đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Lào.

Để giúp cách mạng Lào mở rộng vùng giải phóng, năm 1960, theo yêu cầu của Lào, quân dân Nghệ An cùng một số đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu 4 phối hợp với quân dân Lào mở chiến dịch giải phóng Noọng Hét, trên Đường số 7, tỉnh Xiêng Khoảng. Góp sức vào chiến dịch, tỉnh Nghệ An cử một đại đội công an nhân dân vũ trang tham gia, ngoài ra còn có lực lượng dân quân, du kích huyện Tương Dương làm công tác bảo đảm; dân công các huyện Anh Sơn, Con Cuông phục vụ chiến dịch... Ngày 16-12-1960, chiến dịch tiến công Noọng Hét mở màn. Dù phải vượt qua núi cao, vực sâu, nhiều nơi chưa có dấu chân người, thời tiết vô cùng khắc nghiệt, nhưng các chiến sĩ và dân công Nghệ An tham gia chiến dịch đã nêu cao truyền thống cách mạng quê hương, khắc phục khó khăn gian khổ, quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Với tinh thần cách mạng tiến công, lực lượng vũ trang và dân công Nghệ An cùng quân dân nước bạn đã làm nên chiến thắng Noọng Hét vào ngày 31-12-1960. Thắng lợi này làm cho Đường số 7 được khai thông đến Mường Mộc, tỉnh Xiêng Khoảng, căn cứ kháng chiến của Lào được củng cố và mở rộng. Thắng lợi ở Noọng Hét, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến dịch Nậm Thà 1962 tạo ra bước nhảy vọt cho cách mạng Lào, buộc Mỹ phải chấp nhận thành lập Chính phủ liên hiệp ba phái (12-6-1962) và ký Hiệp định Giơnevơ về Lào (7-1962).

Bước sang năm 1965, tình hình có nhiều chuyển biến. Để phối hợp với chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Lào trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", phát triển các binh đoàn cơ động, thúc đẩy quân phái hữu tiến công quân đội Pathét Lào; đồng thời huy động máy bay đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng và tìm mọi cách phá hoại Chính phủ liên hiệp ba phái. Trước bối cảnh đó, để giúp cách mạng Lào giữ vững thành quả cách mạng giành được, từ ngày 8 đến ngày 10-6-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An. Ban Bí thư xác định vị trí, vai trò quan trọng của Nghệ An lúc này là: "Nghệ An phải đặt hai nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu ngang nhau, góp phần giúp Quảng Bình, Vĩnh Linh chi viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam và cho chiến trường Lào"(7). Theo đó, cùng với nhiệm vụ chi viện cho nhân dân miền Nam đánh Mỹ, việc đẩy mạnh giúp đỡ cách mạng Lào được Nghệ An đặc biệt chú trọng. Tháng 3-1967, tỉnh Nghệ An thành lập Ban Công tác miền Tây. Tiếp đó, Hội hữu nghị Việt - Lào tỉnh Nghệ An được thành lập, đã tập hợp và đoàn kết những người yêu mến đất nước Lào, đã và đang chiến đấu, công tác ở nước bạn Lào, quan tâm đến sự nghiệp cách mạng Lào tham gia vào công tác đối ngoại nhân dân làm cầu nối cho tình hữu nghị và sự hợp tác giữa Nghệ An và với các tỉnh vùng biên giới của Lào, đặc biệt là Xiêng Khoảng. Và trong thực tế, hoạt động của Hội Hữu nghị Việt - Lào tỉnh Nghệ An đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trên cơ sở cầu nối của Hội Hữu nghị Việt - Lào, tháng 3-1969, đoàn đại biểu hai tỉnh Nghệ An và Xiêng Khoảng có buổi gặp gỡ, trao đổi và ký kết một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội. Trong cuộc gặp này, phía Nghệ An cung cấp cho Xiêng Khoảng nông cụ, muối, vải, gạo, giống cây, giống gia súc, gia cầm, cán bộ khoa học kỹ thuật..., tỉnh Xiêng Khoảng cung cấp cho Nghệ An gỗ, một số giống nông nghiệp đặc trưng. Theo thời gian, tình đoàn kết, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa Nghệ An với cách mạng Lào nói chung và với tỉnh Xiêng Khoảng nói riêng ngày càng phát triển, phát triển lên một tầm cao mới khi đế quốc Mỹ mở cuộc hành quân "Cù Kiệt" (7-1969) vào khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.

Trong tình thế khẩn trương, để giải quyết số nhân dân chạy ra biên giới Lào - Việt, Đoàn chuyên gia quân sự 959(8) xin ý kiến Trung ương và Quân ủy Trung ương Việt Nam, đồng thời cử cán bộ liên hệ trực tiếp với các Huyện ủy và Tỉnh ủy Nghệ An giúp nhân dân Lào chạy ra khu vực biên giới Mường Xén, Kỳ Sơn. Đoàn chuyên gia quân sự 463(9) dù đang sát cánh cùng Quân khu Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng chống địch đã cử lực lượng hướng dẫn và bảo vệ hàng nghìn dân và gia đình cán bộ băng rừng vượt suối dưới bom đạn ác liệt của địch về nơi sơ tán giáp biên giới Lào - Việt.

Về phía tỉnh Nghệ An, làm tất cả giúp nhân dân Lào tránh khỏi bom đạn của kẻ thù là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Nghệ An trong những ngày tháng lịch sử này. Lãnh đạo tỉnh xác định, phải "coi đây là nhiệm vụ của tỉnh, ta phải hết sức giúp đỡ bạn, tạo điều kiện thuận lợi cho bạn..."(10). Do đó, nhân dân các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương và Con Cuông đã đón tiếp, giúp đỡ gần hai vạn đồng bào Mường Khun, Mường Pẹc, Mường Ngàn và các gia đình quân nhân tỉnh Xiêng Khoảng sang tản cư. Trong suốt bốn năm, nhân dân Nghệ An và Xiêng Khoảng sống chung như con em một nhà, cùng ăn, cùng ở, sản xuất và chiến đấu, bắt biệt kích, thám báo, bắt giặc lái bị bắn rơi. Con em hai tỉnh đi học chung một trường. Đặc biệt, ở bản Hủa Na, xã Lục Dạ, huyện Con Cuông, vợ chồng chị Bun Pheeng và anh Vi-xít đã làm lễ cưới, sau này chị Bun Pheeng trở thành Ủy viên Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bí thư Tỉnh ủy Xiêng Khoảng, sau đó là Bộ trưởng Phủ Thủ tướng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Không chỉ là hậu phương giúp nhân dân Lào sang sơ tán khỏi bom đạn của kẻ thù, chấp hành Chỉ thị của Bộ Quốc phòng và Quân khu 4 về việc phối hợp với bạn đánh bại cuộc hành quân Cù Kiệt, quân dân Nghệ An đã góp phần quan trọng vào việc trực tiếp bảo vệ hành lang Huội Hằng - Xiêng Khoảng, đánh địch trên đường 7B. Những thắng lợi đó là tiền đề quan trọng, sự cổ vũ lớn lao để quân dân Nghệ An cùng nhân dân các bộ tộc Lào vươn lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Trên đà thắng lợi của cách mạng ba nước Đông Dương nói chung và hai nước Việt - Lào nói riêng, tháng 5-1971, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết Về quyết tâm chiến lược trong năm 1972 là "... đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại mọi bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Campuchia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972"(11). Trên chiến trường Lào, để giúp bạn giành những thắng lợi quyết định trong năm 1972, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Quân khu 4 cùng bạn mở cuộc tấn công vào khu Trung Lào trên địa bàn tỉnh Khăm Muộn theo trục Đường số 12, chiến dịch mang mật danh 972. Nhằm tạo sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận đường 12, Quân khu 4 chỉ thị cho tỉnh Nghệ An mở Mặt trận 772 trên khu vực Mường Mộc, tỉnh Hà Tĩnh mở Mặt trận 872 trên Đường số 8.

 Sau khi nhận nhiệm vụ, hiểu rõ tính chất và tầm quan trọng của chiến dịch đối với sự phát triển của cách mạng Lào, Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An đã họp bàn kỹ lưỡng các phương án và kế hoạch tác chiến. Tỉnh ủy quyết định thành lập Bộ Chỉ huy Mặt trận 772 do đồng chí Trần Ngọc Ninh làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Công Từ làm Chính ủy. Nhiệm vụ Mặt trận 772 được Tỉnh ủy xác định là phải nhanh chóng triệt phá căn cứ Mường Nham, Bản Nam - Tha Si vào đầu mùa khô 1972- 1973, sau đó là căn cứ phỉ ở Nam Heo - Na Kun(12).

Chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của Thường vụ Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy Mặt trận 772, bộ đội tham gia chiến dịch đã anh dũng chiến đấu, hết lòng cùng nhân dân nước bạn thực hiện các bước chiến dịch theo kế hoạch đề ra. Kết quả, các đơn vị vũ trang Nghệ An cùng quân dân Lào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh địch. Chiến thắng của Mặt trận 772 cùng với thắng lợi của Mặt trận 972 do lực lượng Quân khu 4 đảm nhiệm trên Đường số 12 đã giải phóng một vùng rộng lớn cho cách mạng Lào, từ tỉnh Xiêng Khoảng (Thượng Lào) xuống tới Bô Ly Khăm Xay và Khăm Muộn (Trung Lào), nối thông hành lang Thượng, Trung và Hạ Lào.

Về phía Mỹ, thất bại liên tiếp trên chiến trường Lào trong mùa khô 1972 - 1973 khiến chúng lâm vào thế bị động về chiến lược. Sau khi ký Hiệp định Pari về Việt Nam (27-1-1973), không còn con đường nào khác, Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào. Tuy vậy, không cam chịu thất bại, hòng giành lợi thế khi Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng cường các hoạt động quân sự trên đất Lào, chủ yếu là dùng không quân yểm trợ cho quân phái hữu và lực lượng đặc biệt của Vàng Pao mở các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng nhằm giành thêm đất, thêm dân trước khi Hiệp định được ký kết, đồng thời tăng sức ép buộc Pathét Lào phải nhân nhượng cho chúng một số điều khoản có lợi của Hiệp định Viêng Chăn.

Đây là thủ đoạn xảo quyệt, thể hiện rõ quyết tâm Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu mở rộng chiến tranh ở Lào. Nắm bắt tình hình, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 chỉ đạo Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An lệnh cho Bộ Tư lệnh mặt trận 772 ngừng các kế hoạch đang tiến hành, chuyển sang đánh các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, kiên quyết không để một tấc đất nào thuộc vùng giải phóng Lào bị địch lấn chiếm.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ Tư lệnh Mặt trận 772 triển khai lực lượng trên một số hướng chủ yếu mà theo dự kiến địch sẽ tiến hành lấn chiếm trước khi Hiệp định Viêng Chăn ký kết. Với tinh thần khẩn trương, hết lòng vì sự nghiệp cách mạng Lào, trong một thời gian ngắn, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận 772 đã thiết lập xong các trận địa, sẵn sàng đối phó với cuộc phiêu lưu quân sự mới của Mỹ và phái hữu.

 Ngày 16-2-1973, phái hữu Lào sử dụng Binh đoàn 25 (GM) mở cuộc tấn công đánh chiếm cứ điểm Phù Heo. Đây là cứ điểm nằm trong hệ thống núi đá vôi bao quanh thung lũng Tha Si. Nếu chiếm được Phù Heo sẽ khống chế được hoàn toàn vùng Mường Nham thuộc huyện Mường Mộc, tỉnh Xiêng Khoảng - một căn cứ kháng chiến của Pathét Lào. Sau những ngày đầu địch chiếm ưu thế do lực lượng quân sự mạnh, sau khi điều tra nắm chắc tình hình, ngày 19-2-1973, Mặt trận 772 cùng quân dân nước bạn nổ súng đánh địch. Do được chuẩn bị kỹ về mọi mặt cộng với lòng dũng cảm và tình đoàn kết của quân dân Nghệ An với nước bạn Lào, sau nửa giờ chiến đấu, liên quân Lào - Việt làm chủ hoàn toàn cứ điểm Phù Heo. Đây là thắng lợi quan trọng, tạo được thế mạnh cho cách mạng Lào trên bàn hội nghị với Mỹ. Với thất bại này, hy vọng cuối cùng để cứu vãn tình thế và tranh thủ những điểm có lợi trên bàn đàm phán của Mỹ kết thúc, không còn con đường nào khác, ngày 20-2-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Lào được ký tắt. 11 giờ ngày 21-2-1973, Hiệp định Viêng Chăn có hiệu lực. Cũng như Hiệp định Pari về Việt Nam, Hiệp định Viêng Chăn về Lào được ký kết là thắng lợi quyết định của quân dân Lào, đánh dấu bước trưởng thành lớn mạnh của cách mạng Lào, mở ra thời cơ thuận lợi để quân dân Lào tiến lên hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Thắng lợi của Hiệp định Viêng Chăn là minh chứng điển hình về sự giúp đỡ của quân dân Việt Nam nói chung và của tỉnh Nghệ An nói riêng đối với cách mạng Lào. Chỉ tính riêng hai tháng trước khi Hiệp định Viêng Chăn được ký kết, lực lượng vũ trang Nghệ An làm nhiệm vụ trên chiến trường Lào đã "đánh tổng cộng 25 trận lớn nhỏ, diệt và bắt trên 350 tên địch, giành lại được 25 hộ dân với 373 nhân khẩu và giữ được 374 hộ khác với 2.957 nhân khẩu ở lại vùng giải phóng, trong đó có 114 hộ với 704 nhân khẩu thuộc dân tộc Lào Lùm, giải phóng hoàn toàn huyện Mường Mộc và mở rộng thêm vùng Tha Si, Bảo Man, nối liền vùng giải phóng thuộc hai tỉnh Xiêng Khoảng và Bô Ly Khăm Xay"(13).

Sau khi Hiệp định Viêng Chăn có hiệu lực, để phù hợp và tạo sự nhất trí cao trong nhiệm vụ giúp cách mạng Lào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, Đảng ủy quân sự tỉnh Nghệ An trong phiên họp từ ngày 22 đến ngày 24-3-1973 đã đề ra nhiệm vụ tác chiến cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường Lào là "tích cực xây dựng cơ sở lâu dài trên đất bạn, đẩy mạnh sản xuất, chăn nuôi tại chỗ, có hậu cứ với quy mô vừa và nhỏ để bám trụ lâu dài. Chuyển bộ đội hoạt động ở Lào thành quân tình nguyện. Tiếp tục giáo dục chính trị tư tưởng làm cho mọi người có sự nhất quán trong quan điểm về trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế vẻ vang để tự xác định bám trụ lâu dài trên đất bạn"(14). Theo chỉ thị trên, tháng 3-1973, Tiểu đoàn 43 tỉnh Nghệ An chuyển thành quân tình nguyện ở Lào. Sau đó, tiểu đoàn khẩn trương hợp đồng cùng quân dân Lào bám sát cơ sở tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện những điều khoản trong Hiệp định Viêng Chăn, giải thích rõ ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định để nhân dân kiên quyết bảo vệ, đấu tranh không cho địch vi phạm... Được sự giúp đỡ của quân dân Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng, các vùng giải phóng cách mạng Lào không ngừng được củng cố, các cơ sở cách mạng được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện, các thủ tục lạc hậu dần được xóa bỏ, nhân dân các bộ tộc ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi trọn vẹn của cách mạng Lào. Sang năm 1974, do yêu cầu chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 ở miền Nam Việt Nam, lực lượng vũ trang Nghệ An làm nhiệm vụ trên đất Lào lần lượt rút về nước, kết thúc vẻ vang nhiệm vụ quốc tế giúp bạn.

Có thể nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, quân dân Nghệ An đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Lào. Quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và phương châm chiến lược "Giúp bạn là mình tự giúp mình" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, quân dân Nghệ An luôn kề vai sát cánh với nhân dân Lào chống kẻ thù chung, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Lào. Ghi nhận những chiến công của quân và dân Nghệ An đối với cách mạng Lào, Đảng, Nhà nước Lào đã trao tặng cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Nghệ An nhiều phần thưởng cao quý. Đặc biệt hiện nay, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Lào đang làm hết sức mình trong việc giúp tỉnh Nghệ An tìm kiếm cất bốc hài cốt các liệt sĩ hy sinh trên đất Lào. Đó là sự tri ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào đối với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Nghệ An đã chiến đấu, công tác và hy sinh trên đất Lào; để lại tấm gương sáng ngời về tình đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng giữa nhân dân Nghệ An với nhân dân Lào, đúng như khẳng định của Tổng Bí thư Cayxỏn Phômvihản về tình đoàn chiến đấu Việt - Lào: "Trong lịch sử cách mạnh thế giới cũng đã nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy..."(15).

 

 

 

Chú thích

1. Nghệ An có chung đường biên giới với các tỉnh: Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay và Hủa Phăn.

2. Tính đến năm 1957, quân đội Pathét Lào có hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn 1 đóng ở Xiêng Ngân (Luông Pha Băng), Tiểu đoàn 2 đóng ở Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng.

3. Người nhận lệnh trực tiếp là Thiếu tướng Nguyễn Đôn, Tư lệnh Quân khu.

4,5,6,7, 13,14: BCHQS Nghệ An xuất bản năm 1995: Nghệ An - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975), tr.51, tr. 52, tr.99, tr.320, tr.321.

8. Đoàn chuyên gia quân sự 959 thành lập ngày 12-9-1959.

9. Đoàn chuyên gia quân sự 463 thành lập tháng 4-1963.

10. Chỉ thị của số 105/TU ngày 20-9-1969 của Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An gửi các huyện Kỳ Sơn, Con Cuông và Tương Dương, lưu tại Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Nghệ An.

11. Dẫn  theo Nghệ An lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), do BCHQS tỉnh Nghệ An xuất bản năm 1995, tr.215.

12. Đây là những địa danh thuộc tỉnh Xiêng Khoảng, tr.321.

15. Cayxỏn Phômvihản, Xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.91

* Nghệ An long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An (1030 - 2020)

Tối 30.11, tại TP. Vinh, tỉnh Nghệ An long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 990 năm danh xưng Nghệ An (1030 - 2020) và đón Bằng công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt đình Hoành Sơn.

Trong tiến trình phát triển của dân tộc, Nghệ An là vùng đất không thể tách rời của một dải non sông Việt Nam thống nhất. Đến nay, các di chỉ khảo cổ học được tìm thấy trên nhiều vùng, miền trong tỉnh, đã khẳng định sự hiện diện và đóng góp của cộng đồng cư dân Nghệ An đối với sự hình thành nền văn hóa, văn minh đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Qua các cứ liệu lịch sử, Nghệ An xưa thuộc nước Việt Thường. Trải qua những thăng trầm vùng đất này đã mang nhiều tên gọi khác nhau như: Hoài Hoan, Cửu Chân, Cửu Đức, Nhật Nam, Hoan Châu. Đến đầu thời đại nhà Lý, tên Hoan Châu được đổi thành Nghệ An.

Lễ kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sâu sắc thêm vị trí, vai trò, giá trị đặc biệt của vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đã sinh ra vị Cha già dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác Hồ luôn hướng về quê hương với tình cảm thiêng liêng, sâu đậm, mong mỏi Nghệ An mau trở thành một trong những tỉnh khá nhất ở miền Bắc. Đảng, Nhà nước trong suốt thời gian qua cũng luôn quan tâm, tin tưởng, tạo điều kiện thuận lợi để Nghệ An phát triển.

Tại buổi Lễ, lãnh đạo Bộ VHTT&DL đã trao Bằng di tích Quốc gia đặc biệt Đình Hoành Sơn cho tỉnh Nghệ An. Di tích kiến trúc nghệ thuật đình Hoành Sơn (xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn) đã được Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định số 2082/QĐ-TTg, ngày 25/12/2017, xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt.

Linh Nhi

* Bộ Khoa học và Công nghệ tặng quà cho đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại Thanh Chương

Để góp phần chung tay hỗ trợ đồng bào vùng lũ lụt Thanh Chương ổn định lại cuộc sống, ngày 26-11-2020, đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ do đồng chí Thân Ngọc Hoàng - Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển KH&CN địa phương làm trưởng đoàn đã đến thăm hỏi, động viên, tặng quà cho người dân bị thiệt hại do lũ lụt trên địa bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Do ảnh hưởng của bão số 9, cuối tháng 10 năm 2020, trên địa bàn huyện Thanh Chương đã xẩy ra mưa lớn, gây lũ quét ảnh hưởng trên diện rộng, làm thiệt hại nhiều về người và của của nhân dân. Thiên tai đã để lại hậu quả nặng nề, làm cho cuộc sống của hàng ngàn gia đình gặp khó khăn, nhiều ngôi nhà bị đổ sập và xuống cấp, hàng ngàn hecta rau màu, thủy sản bị mất trắng, nhiều trang trại, gia trại bị thiệt hại lớn và nhiều công trình hư hỏng nặng...

Đoàn đã trao tặng 50 suất quà, tiền mặt với tổng trị giá 50 triệu đồng cho người dân ở địa bàn các xã Thanh Long, Thanh Hà và Thanh Tùng ở Thanh Chương. Sự thăm hỏi, động viên giúp đỡ của tập thể lãnh đạo công chức, viên chức và người lao động cơ quan Bộ Khoa học và Công nghệ đã thể hiện tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách của dân tộc ta và là nguồn động viên để nhân dân Thanh Chương khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định cuộc sống.

Mạnh Cường

* Nghệ An có 101 sản phẩm OCOP năm 2020 tham gia đánh giá phân hạng

 Chiều ngày 09/11, Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) Nghệ An tổ chức khai mạc hội thi đánh giá, phân hạng các sản phẩm OCOP cấp tỉnh năm 2020. Đồng chí Hoàng Nghĩa Hiếu - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì cuộc thi.

Tham gia hội thi phân hạng chương trình mỗi xã một sản phẩm OCOP năm 2020, Nghệ An có 101 sản phẩm thuộc 6 nhóm sản phẩm của các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất trên địa bàn 16 huyện, thị xã, thành phố. 6 nhóm sản phẩm gồm: Thực phẩm; đồ uống; thảo dược; vải may mặc; đồ lưu niệm, nội thất trang trí; dịch vụ du lịch. Trước đó, các sản phẩm đã được Hội đồng đánh giá cấp huyện thẩm định, đánh giá đủ điều kiện đề nghị hội đồng cấp tỉnh tổ chức chấm điểm, xếp hạng sản phẩm.

Tại buổi đánh giá, các tổ chức kinh tế, cơ sở sản xuất đã trình bày câu chuyện sản phẩm của cơ sở và trả lời các câu hỏi của thành viên hội đồng đánh giá. Các sản phẩm được chấm điểm theo bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm Chương trình mỗi xã một sản phẩm, quy định tại Quyết định 1048/QĐ-TTg ngày 21/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

Sau 6 ngày chấm thi, Hội đồng đánh giá, phân hạng sẽ công bố những sản phẩm đạt từ 3 đến 4 sao.

Hồng Bắc

* Tổng kết hoạt động du lịch năm 2020 của Thị xã Cửa Lò

Chiều ngày 11/11, UBND thị xã Cửa Lò tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động du lịch năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021.

Năm 2020, mặc dù dịch bệnh covid 19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch Cửa Lò, Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung, tuy nhiên TX Cửa Lò đã làm tốt công tác phòng dịch, từng bước đưa ngành du lịch phục hồi và phát triển. Tổng lượng khách đến với Cửa Lò đạt 1,8 triệu lượt; Doanh thu từ các hoạt động du lịch, dịch vụ đạt 1.759 tỷ đồng; xây mới và mở rộng thêm 03 cơ sở lưu trú; Công tác chỉnh trang đô thị có nhiều đổi mới;... Trong năm 2021, Cửa Lò phấn đấu đón 3 triệu 150 ngàn lượt khách, tăng 42,5% so với năm 2020; doanh thu dịch vụ du lịch đạt 3360 tỷ đồng, tăng 47,7% so với năm 2020. Tiếp tục mở rộng không gian du lịch về phía Nam, đặc biệt là du lịch ẩm thực đường ven sông Lam, Nghi Hòa. Chú trọng xây dựng các điểm đến tại Cửa Lò, kết nối thành tour tham quan để tuyên truyền, quảng bá, thu hút khách du lịch.

Dịp này, thị xã Cửa Lò cũng đã khen thưởng cho 13 tập thể, 9 cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác du lịch năm 2020.

Hồng Bắc

* Hội thảo khoa học "Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng: Dấu ấn 100 năm vươn tầm hội nhập"

Nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng 100 năm Ngày thành lập, chiều ngày 13/11, Hội thảo khoa học "Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng: Dấu ấn 100 năm vươn tầm hội nhập" được tổ chức.

Trường Quốc học Vinh - Huỳnh Thúc Kháng ra đời năm 1920, trong bối cảnh trên địa bàn tỉnh chưa có trường trung học và học sinh xứ Nghệ khi học hết cấp tiểu học muốn học lên chỉ có cách vào Huế hoặc ra Hà Nội. Năm 2020, trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng tròn 100 tuổi. Trên hành trình xây dựng và phát triển, trường có truyền thống vẻ vang, để lại dấu ấn riêng, dấu ấn trăm năm của mái trường thế kỷ, đặc biệt là đang vươn tới mục tiêu xây dựng trường THPT Huỳnh Thúc Kháng theo mô hình giáo dục tiên tiến, hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.

Hội thảo đã làm nổi bật: truyền thống hiếu học, truyền thống cách mạng của các thế hệ giáo viên và học sinh của ngôi trường THPT lâu đời nhất của Nghệ An. Ngôi trường này trong thời kỳ lịch sử nào cũng có những giáo viên đi tiên phong trong đổi mới giáo dục, có nhiều học sinh là những nhà khoa học, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chí sỹ yêu nước, anh hùng cách mạng... Đồng thời làm rõ được sự tiếp nối truyền thống hiếu học, học giỏi của học sinh nhà trường. 100 năm qua trường QH Vinh- THPT Huỳnh Thúc Kháng luôn là cái nôi đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước, luôn dẫn đầu Khối THPT không chuyên của tỉnh về chất lượng giáo dục và đi đầu trong đổi mới giáo dục hội nhập.

Hồ Thủy

* Startup Nghệ An giành Quán quân Cuộc thi ''Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia'' 2020

Ngày 29/11, tại Hà Nội, Văn phòng Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Đề án 844), Bộ KH&CN phối hợp với Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp khoa học và công nghệ Việt Nam (SVF), Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp quốc gia tổ chức chung kết Cuộc thi "Tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia".

Sau 3 tháng triển khai từ các vòng loại, Ban tổ chức đã lựa chọn được 10/250 dự án xuất sắc lọt vào vòng chung kết, trong đó có 3 Dự án được trao giải. Dự án Gostream Technology (Startup Nghệ An) với mô hình kinh doanh thực tiễn, ứng dụng công nghệ để nhân rộng và thỏa mãn nhu cầu đa dạng biến đổi của khách hàng đã vinh dự giành giải Nhất cuộc thi, với giải thưởng 200 triệu đồng và đại diện cho Việt Nam tham dự cuộc thi khởi nghiệp Startup World Cup 2021. Giải Nhì thuộc về EM&AI và giải Ba thuộc về Edulive toàn cầu.

Huy Khánh

* Trưng bày 68 Mộc bản quý hiếm và 100 bức ảnh về Nghệ An

Nằm trong chương trình kỷ niệm 990 năm Danh xưng Nghệ An (1030 - 2020), chiều 30/11, tỉnh Nghệ An tổ chức Triển lãm "Những dấu mốc lịch sử hình thành tỉnh Nghệ An trong mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới" và Triển lãm ảnh "Nghệ An hội nhập và phát triển".

Trong hành trình phát triển, nguồn tư liệu Mộc bản triều Nguyễn khắc ghi về những dấu mốc hình thành và phát triển của tỉnh Nghệ An cũng như chuỗi các hình ảnh về chặng đường phát triển và hội nhập của Nghệ An được tái hiện qua 68 hình ảnh Mộc bản quý hiếm được trích ra từ các Mộc bản triều Nguyễn và 100 bức ảnh của 33 nghệ sỹ nhiếp ảnh là tài sản quý giá của nhân dân Nghệ An nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.

Tài liệu Mộc bản được làm bằng những tấm gỗ, trên đó được khắc bằng chữ Hán hoặc chữ hán Nôm được dùng để in thành sách và được dùng phổ biến ở Việt Nam trong thời phong kiến; cũng là nguồn tư liệu lịch sử tin cậy, chân thực, giúp công chúng hiểu rõ hơn về những dấu mốc lịch sử của vùng đất Nghệ An.

Triễn lãm sẽ được diễn ra trong 10 ngày (từ 30/11 - 10/12/2020). Sau đó, các tư liệu sẽ được trưng bày luân phiên tại các địa phương trên địa bàn tỉnh.

Linh Nhi

* Nghệ An: Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh

Ngày 26/11, Đảng ủy, UBND xã Tào Sơn, huyện Anh Sơn tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn.          

Hoàng Tá Thốn sinh năm 1254 tại làng Vạn Phần, nay là xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu. Theo sử sách ghi lại, năm 1288 trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, do có công lớn dụ hàng quân địch, bắt sống Ô Mã Nhi - một đại tướng tin cẩn của vua Nguyên Mông, Ngài được vua Trần Nhân Tông phong danh hiệu "Sát Hải chàng lại đại tướng quân". Sau này, Ngài được giao thống lĩnh thuỷ binh, trông coi 12 cửa sông và bảo vệ vùng duyên hải nước ta lúc đó và được tiến cử bổ nhiệm làm Nội Thư Gia. Ngài mất vào ngày 1/1 năm Ất Hợi 1339, thọ 85 tuổi với tước phong "Sát Hải Đại vương", thi hài được mai táng và lập đền thờ tại xứ Mả Cháy tổng Vạn Phần, nay là xã Diễn Vạn huyện Diễn Châu. Ngài được nhiều địa phương lập đền thờ, trong đó có nhân dân xã Tào Sơn - huyện Anh Sơn.

Đền thờ Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn vinh dự được UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh góp phần gìn giữ giá trị văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của người dân Tào Sơn nói riêng và nhân dân vùng Anh Sơn nói chung.

Huy Khánh

* Ra mắt sách "Năm xưa tỉnh Nghệ, thành Vinh"

Tối 29/11, Sở Văn hoá - Thể thao và Nhà xuất bản Nghệ An, nhóm Vinh xưa ra mắt sách: "Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" của nhà nghiên cứu Phạm Xuân Cần.

"Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" tập hợp gần 500 bức ảnh rất có giá trị về tỉnh Nghệ An và thành phố Vinh cuối thế kỉ 19, đầu thế kỷ 20. Sách được chia làm 5 phần: đất nước - con người; các công trình văn hoá, tín ngưỡng; chính trị, kinh tế; đô thị; văn hoá xã hội. Trong đó có những bức ảnh xưa nhất, chụp năm 1890, cách nay 130 năm, tái hiện khá đầy đủ, sinh động, rõ nét và trình tự về cảnh sắc thiên nhiên, đất nước, con người, các di sản văn hoá, hoạt động chính trị, kinh tế, VH-XH ở Nghệ An và đô thị Vinh từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Ấn phẩm được tác giả dày công sưu tầm, nghiên cứu, chắt lọc, tập hợp trong gần 20 năm. Đêm ra mắt sách "Năm xưa, tỉnh Nghệ, thành Vinh" đã thu hút sự quan tâm của giới trí thức văn sĩ, nhà nghiên cứu văn hoá lịch sử xứ Nghệ, cùng đông đảo bạn đọc ở mọi tầng lớp.

Hồ Thủy

* Giới thiệu sách: Vững vàng một niềm tin

Tháng 9 năm 2020, Nhà xuất bản Nghệ An đã cho ra mắt bạn đọc ấn phẩm "Vững một niềm tin" của tác giả Hà Văn Tải.

Đây là cuốn sách nằm trong chuỗi các đầu sách đặt hàng của UBND tỉnh năm 2020, tập hợp 23 bài viết của tác giả đã được đăng tải trên các báo, tạp chí với nội dung ghi lại những tình cảm, trăn trở, nghĩ suy của một cán bộ, đảng viên lão thành có nhiều năm lăn lộn, cống hiến với công tác Đảng (năm nay ông đã 90 tuổi và đã có 72 năm tuổi Đảng).

Vững một niềm tin là thông điệp của tác giả: Luôn thuỷ chung son sắt đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ niềm tin yêu bất diệt đó, tác giả đã lồng ghép, gửi gắm những trăn trở đối với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời đại ngày nay. Làm sao để Đảng gần dân hơn, được dân tin yêu hơn,…Với ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn sâu sắc, tin chắc cuốn sách sẽ là tài liệu bổ ích dành cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trong và ngoài tỉnh nhân dịp chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX và tiến tới Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII.

Trịnh Thủy

 

  •  



Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây