HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP

Cổng Thông tin khoa học công nghệ Nghệ An



BẢN BIÊN TẬP


Người biên tập:
Tên bài: Gen HSD3B1 cho thấy mối liên quan giữa kiểu gen và ung thư nội mạc tử cung
Nội dung:

Theo một phát hiện mới từ Viện nghiên cứu Lerner của Phòng khám Cleveland-Hoa Kỳ, gen HSD3B1 có thể nắm giữ manh mối để dự đoán và điều trị ung thư nội mạc tử cung.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy kiểu gen HSD3B1 phổ biến hơn ở phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung loại 2, theo kết quả được công bố trên tạp chí JNCI Cancer Spectrum. Những bệnh nhân này cho thấy tỷ lệ sống thấp hơn so với những người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung loại 1, có thể là do các tế bào của bệnh nhân loại 2 ít phụ thuộc vào hormone hơn. Kết quả là bước mới nhất trong việc gỡ bỏ vai trò của kiểu gen HSD3B1 trong các bệnh ung thư do hormone điều khiển, so với nghiên cứu trước đây cho thấy mối liên quan với ung thư vú và tuyến tiền liệt.

Bác sĩ Nima Sharifi-giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Lenrner cho biết: Các nhà nghiên cứu kiểu gen HSD3B1 đang xây dựng nền tảng cho một số lựa chọn trong tương lai để điều trị và ngăn ngừa những loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao.

Đồng tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Roberto Vargas cho biết: “Mặc dù là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ, nhưng không có xét nghiệm hoặc kiểm tra nào để tầm soát ung thư nội mạc tử cung. Tỷ lệ mắc căn bệnh này đang tăng lên ở Hoa Kỳ. Trong hơn ba thập kỷ qua, chúng tôi đã không thay đổi giới hạn về kết quả. Việc tìm ra mối tương tác giữa gen này và ung thư nội mạc tử cung có thể mở đường để tầm soát và điều trị nó hiệu quả hơn”.

HSD3B1 là một gen quy định nội tiết tố androgen và estrogen bằng cách sản xuất enzym chuyển đổi tiền chất steroid tuyến thượng thận thành nội tiết tố androgen và estrogen. Kiểu gen của HSD3B1 hoặc là cho phép tuyến thượng thận, giúp khuếch đại quá trình hoặc hạn chế tuyến thượng thận.

Nghiên cứu trước đây đã xác định cách thức hoạt động của di truyền HSD3B1 và ​​liên kết với các bệnh ung thư liên quan đến hormone, bắt đầu với ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn. Khi bệnh nhân trải qua quá trình hóa chất hoặc phẫu thuật để điều trị ung thư tuyến tiền liệt, quy trình này sẽ tạm dừng một trong những con đường sản xuất nội tiết tố androgen của cơ thể.

Tiến sĩ Sharifi cho biết: Khi cơ thể ngừng sản xuất nội tiết tố androgen hoặc estrogen thông qua cơ quan sinh dục, cơ thể vẫn có thể sản xuất các hormone này thông qua con đường thượng thận.

Cắt tinh hoàn nhằm mục đích ngừng sản xuất androgen khi các khối u phát triển để đáp ứng với hormone. Khi tuyến thượng thận bắt đầu sản xuất nội tiết tố androgen, điều đó có thể dẫn đến tái phát. Nghiên cứu trước đây liên kết HSD3B1 cho phép tuyến thượng thận với kết quả kém hơn ở ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn trên nhiều nhóm thuần tập.

HSD3B1 có thể đóng vai trò như một dấu hiệu sinh học cho các loại ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung vì buồng trứng ngừng sản xuất estrogen sau khi mãn kinh. Sau đó, tuyến thượng thận có thể hoạt động để bắt đầu sản xuất các hormone đó. Tuổi trung bình của bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung là 60 tuổi, với triệu chứng chính là chảy máu bất thường sau khi mãn kinh. Nghiên cứu gần đây đã điều tra mối liên quan tiềm ẩn giữa kiểu gen của HSD3B1 với các loại phụ ung thư vú và nội mạc tử cung sau mãn kinh, nơi ung thư phát triển theo phản ứng với estrogen.

Nghiên cứu trước đây liên quan đến ung thư ER + ở phụ nữ mãn kinh với kiểu gen cho phép tuyến thượng thận HSD3B1. Nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Sharifi, thông qua phân tích dữ liệu TCGA, đã bổ sung vào phát hiện này bằng cách chỉ ra mối liên quan giữa kiểu gen HSD3B1 đối diện, hạn chế tuyến thượng thận và một loại phụ ung thư vú ER nhất định.

Trong ung thư nội mạc tử cung, loại huyết thanh phụ có ít biểu hiện ER hơn và có liên quan đến tiên lượng xấu hơn. Theo nghiên cứu, kiểu gen HSD3B1 hạn chế tuyến thượng thận thường liên quan đến ung thư nội mạc tử cung loại huyết thanh. Ngoài ra, trong một phân tích dữ liệu Biobank của Vương quốc Anh, kiểu gen hạn chế tuyến thượng thận được chứng minh là có liên quan đến kết quả xấu hơn ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung.

Tác giả đầu tiên của nghiên cứu Tiến sĩ Jeff McManus, cho biết: Hiện tại cần xác nhận kết quả với những nhóm thuần tập lớn hơn nhiều. Điều đó sẽ bao gồm việc kiểm tra các mối liên kết HSD3B1 với tỷ lệ sống sót ở phân nhóm ung thư khác nhau. Một số hợp tác đang diễn ra của HSD3B1 bao gồm nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ của HSD3B1 với ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung, cũng như điều tra về cách HSD3B1 liên quan đến phản ứng với xạ trị. Các thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt được tổ chức tại Cleveland Clinic sẽ kiểm tra cách những người có kiểu gen HSD3B1 cụ thể phản ứng với phương pháp điều trị.

Các tác giả lưu ý rằng phụ nữ da đen có nhiều khả năng thừa hưởng HSD3B1 hạn chế tuyến thượng thận và một số loại ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung có kết quả xấu hơn; và cả hai đều phổ biến hơn ở phụ nữ da đen. Phụ nữ da đen cũng có nguy cơ chết vì ung thư tử cung cao gấp đôi so với các nhóm dân tộc khác trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 5 từ Viện Ung thư Quốc gia.

Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-hsd3b1-gene-association-genotype-endometrial.html, 13/8/2022




NHUẬN BÚT


Tác giả:
Tiêu đề: Gen HSD3B1 cho thấy mối liên quan giữa kiểu gen và ung thư nội mạc tử cung
Ngày xuất bản: Thứ tư - 21/09/2022 21:53
Nội dung:

Theo một phát hiện mới từ Viện nghiên cứu Lerner của Phòng khám Cleveland-Hoa Kỳ, gen HSD3B1 có thể nắm giữ manh mối để dự đoán và điều trị ung thư nội mạc tử cung.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy kiểu gen HSD3B1 phổ biến hơn ở phụ nữ bị ung thư nội mạc tử cung loại 2, theo kết quả được công bố trên tạp chí JNCI Cancer Spectrum. Những bệnh nhân này cho thấy tỷ lệ sống thấp hơn so với những người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung loại 1, có thể là do các tế bào của bệnh nhân loại 2 ít phụ thuộc vào hormone hơn. Kết quả là bước mới nhất trong việc gỡ bỏ vai trò của kiểu gen HSD3B1 trong các bệnh ung thư do hormone điều khiển, so với nghiên cứu trước đây cho thấy mối liên quan với ung thư vú và tuyến tiền liệt.

Bác sĩ Nima Sharifi-giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Lenrner cho biết: Các nhà nghiên cứu kiểu gen HSD3B1 đang xây dựng nền tảng cho một số lựa chọn trong tương lai để điều trị và ngăn ngừa những loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao.

Đồng tác giả nghiên cứu Tiến sĩ Roberto Vargas cho biết: “Mặc dù là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ, nhưng không có xét nghiệm hoặc kiểm tra nào để tầm soát ung thư nội mạc tử cung. Tỷ lệ mắc căn bệnh này đang tăng lên ở Hoa Kỳ. Trong hơn ba thập kỷ qua, chúng tôi đã không thay đổi giới hạn về kết quả. Việc tìm ra mối tương tác giữa gen này và ung thư nội mạc tử cung có thể mở đường để tầm soát và điều trị nó hiệu quả hơn”.

HSD3B1 là một gen quy định nội tiết tố androgen và estrogen bằng cách sản xuất enzym chuyển đổi tiền chất steroid tuyến thượng thận thành nội tiết tố androgen và estrogen. Kiểu gen của HSD3B1 hoặc là cho phép tuyến thượng thận, giúp khuếch đại quá trình hoặc hạn chế tuyến thượng thận.

Nghiên cứu trước đây đã xác định cách thức hoạt động của di truyền HSD3B1 và ​​liên kết với các bệnh ung thư liên quan đến hormone, bắt đầu với ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn. Khi bệnh nhân trải qua quá trình hóa chất hoặc phẫu thuật để điều trị ung thư tuyến tiền liệt, quy trình này sẽ tạm dừng một trong những con đường sản xuất nội tiết tố androgen của cơ thể.

Tiến sĩ Sharifi cho biết: Khi cơ thể ngừng sản xuất nội tiết tố androgen hoặc estrogen thông qua cơ quan sinh dục, cơ thể vẫn có thể sản xuất các hormone này thông qua con đường thượng thận.

Cắt tinh hoàn nhằm mục đích ngừng sản xuất androgen khi các khối u phát triển để đáp ứng với hormone. Khi tuyến thượng thận bắt đầu sản xuất nội tiết tố androgen, điều đó có thể dẫn đến tái phát. Nghiên cứu trước đây liên kết HSD3B1 cho phép tuyến thượng thận với kết quả kém hơn ở ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn trên nhiều nhóm thuần tập.

HSD3B1 có thể đóng vai trò như một dấu hiệu sinh học cho các loại ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung vì buồng trứng ngừng sản xuất estrogen sau khi mãn kinh. Sau đó, tuyến thượng thận có thể hoạt động để bắt đầu sản xuất các hormone đó. Tuổi trung bình của bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung là 60 tuổi, với triệu chứng chính là chảy máu bất thường sau khi mãn kinh. Nghiên cứu gần đây đã điều tra mối liên quan tiềm ẩn giữa kiểu gen của HSD3B1 với các loại phụ ung thư vú và nội mạc tử cung sau mãn kinh, nơi ung thư phát triển theo phản ứng với estrogen.

Nghiên cứu trước đây liên quan đến ung thư ER + ở phụ nữ mãn kinh với kiểu gen cho phép tuyến thượng thận HSD3B1. Nhóm nghiên cứu của Tiến sĩ Sharifi, thông qua phân tích dữ liệu TCGA, đã bổ sung vào phát hiện này bằng cách chỉ ra mối liên quan giữa kiểu gen HSD3B1 đối diện, hạn chế tuyến thượng thận và một loại phụ ung thư vú ER nhất định.

Trong ung thư nội mạc tử cung, loại huyết thanh phụ có ít biểu hiện ER hơn và có liên quan đến tiên lượng xấu hơn. Theo nghiên cứu, kiểu gen HSD3B1 hạn chế tuyến thượng thận thường liên quan đến ung thư nội mạc tử cung loại huyết thanh. Ngoài ra, trong một phân tích dữ liệu Biobank của Vương quốc Anh, kiểu gen hạn chế tuyến thượng thận được chứng minh là có liên quan đến kết quả xấu hơn ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung.

Tác giả đầu tiên của nghiên cứu Tiến sĩ Jeff McManus, cho biết: Hiện tại cần xác nhận kết quả với những nhóm thuần tập lớn hơn nhiều. Điều đó sẽ bao gồm việc kiểm tra các mối liên kết HSD3B1 với tỷ lệ sống sót ở phân nhóm ung thư khác nhau. Một số hợp tác đang diễn ra của HSD3B1 bao gồm nghiên cứu sâu hơn về mối quan hệ của HSD3B1 với ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung, cũng như điều tra về cách HSD3B1 liên quan đến phản ứng với xạ trị. Các thử nghiệm lâm sàng đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt được tổ chức tại Cleveland Clinic sẽ kiểm tra cách những người có kiểu gen HSD3B1 cụ thể phản ứng với phương pháp điều trị.

Các tác giả lưu ý rằng phụ nữ da đen có nhiều khả năng thừa hưởng HSD3B1 hạn chế tuyến thượng thận và một số loại ung thư vú và ung thư nội mạc tử cung có kết quả xấu hơn; và cả hai đều phổ biến hơn ở phụ nữ da đen. Phụ nữ da đen cũng có nguy cơ chết vì ung thư tử cung cao gấp đôi so với các nhóm dân tộc khác trong một nghiên cứu được công bố vào tháng 5 từ Viện Ung thư Quốc gia.

Đ.T.V (NASATI), theo https://medicalxpress.com/news/2022-09-hsd3b1-gene-association-genotype-endometrial.html, 13/8/2022




Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây