Ứng dụng kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ trong điều trị ung thư vòm họng trên hệ thống máy gia tốc tuyến tính tại Nghệ An

Thứ hai - 31/01/2022 21:50 0
Ung thư vòm họng (UTVH) là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất ở Việt Nam và một số nước vùng Nam Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore… Theo Globocan 2020, tại Việt Nam, UTVH đứng thứ 9 về tỷ lệ mắc mới với 6040 ca/năm, là loại ung thư đứng hàng thứ 6 ở nam giới với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 8.1/100.000 dân và đứng hàng thứ 9 ở nữ giới với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 2.8/100.000 dân. Mặc dù ung thư vòm họng là một bệnh khó phát hiện sớm, nhiều bệnh nhân đến viện ở giai đoạn tiến triển và giai đoạn muộn, nhưng nhờ các tiến bộ trong chẩn đoán cũng như điều trị bệnh tiên lượng của UTVH đã được cải thiện qua ba thập kỷ gần đây.
Về điều trị, UTVH nhạy cảm với cả xạ trị và hóa trị. Trong đó, xạ trị được coi là phương pháp điều trị chủ đạo. Đối với UTVH giai đoạn I, điều trị xạ trị đơn thuần có thể kiểm soát được bệnh với tỷ lệ sống thêm 5 năm, 10 năm đạt được trên 90%. Đối với UTVH giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng (II-IVA), theo hướng dẫn thực hành điều trị ung thư của Mạng ung thư quốc gia Hoa kỳ (National Comprehensive Cancer Network - NCCN), Hiệp hội đầu cổ châu Âu (European Head and Neck Society - EHNS), Hiệp hội ung thư châu Âu (European Society for Medical Oncology - ESMO), Hiệp hội xạ trị và ung thư châu Âu (European Society for Radiotherapy and Oncology - ESTRO), hóa xạ đồng thời kết hợp được chỉ định như là một phác đồ điều trị chuẩn cho UTVH giai đoạn II-IVA [2] [3].
Tại Việt Nam UTVH luôn là bệnh ung thư phổ biến thường gặp nhất hiện nay. Bệnh nhân thường đến khám và phát hiện muộn, do đó tỉ lệ tử vong cao. Việc ứng dụng các kỹ thuật cao góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng điều trị bệnh. Khác với các nước ở vùng Âu Mỹ, Việt Nam thuộc vùng dịch tễ địa lý của bệnh lý ung thư vòm, thể không biệt hóa chiếm trên 90% đáp ứng rất tốt với hoá xạ trị. Bên cạnh đó, thì cho đến nay tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá một cách toàn diện lợi ích cũng như độc tính giữa hóa-xạ trị đồng thời bằng kỹ thuật xạ trị cường độ cho các bệnh nhân UTVH.
Tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An, từ tháng 3/2019 đã triển khai hệ thống xạ trị gia tốc Precise và Synergy Platform đầu tiên trong Tỉnh nhà và hiện đại bậc nhất khu vực Bắc Trung Bộ, đây là tiền đề cho việc áp dụng các kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ trong điều trị các mặt bệnh ung thư nói chung và UTVH nói riêng. Đây cũng là cơ hội để chúng tôi tiếp cận sâu hơn với các phương pháp điều trị ung thư hiện đại trong điều trị ung thư cho bệnh nhân. Việc ứng dụng thành công kỹ thuật này sẽ làm tăng thêm niềm tin của nhân dân khi điều trị ung thư tại địa phương, giúp làm giảm phiền hà và tốn kém chi phí cho người bệnh, gia đình và xã hội.
Vì vậy, việc thực hiện đề tài: “Ứng dụng kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ trong điều trị ung thư vòm họng trên hệ thống máy gia tốc tuyến tính tại Nghệ An” nhằm để đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị mới này với mục tiêu Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư vòm họng. Đánh giá kết quả điều trị và tác dụng không mong trong xạ trị điều biến cường độ ung thư vòm họng tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An.


Qua thời gian nghiên cứu có thể nhận thấy ung thư vòm họng hay gặp thể ung thư không biệt hóa, độ tuổi hay gặp là lớn hơn 40 tuổi, tuổi trung bình là 51,9 ± 10,89 tuổi. Nam giới gặp nhiều hơn nữ giới với tỉ lệ nam/nữ là 1,5/1.
Các triệu chứng lâm sàng hay gặp chủ yếu là nổi hạch cổ 70,00%, đau đầu 26,67%, ù tai 20,00%, chảy máu 10,00%. Bệnh thường phát hiện ở giai đoạn đã tiển triển tại chỗ tại vùng (giai đoạn II 33,33%, giai đoạn III 36,67%).
Ung thư vòm đáp ứng tốt với điều trị hóa xạ trị đồng thời, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn 90%, tỷ lệ đáp ứng 1 phần là 6,67%, không có trường hợp không đáp ứng và có 3,33% tiển triển di căn xa.
Các biến chứng, tác dụng phụ trong quá trình điều trị chủ yếu gặp độ 1, độ 2, ít gặp độ 3, độ 4. Liều xạ trị trên cơ quan nguy cấp của kế hoạch tia xạ đảm bảo trong giới hạn cho phép.
Qua kết quả nghiên cứu này, đề tài đã chỉ ra được kết quả bước đầu điều trị ung thư vòm họng tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An bằng kỹ thuật xạ trị có điều biến cường độ (IMRT). Kết quả nghiên cứu cho thấy tuy có nhiều bệnh nhân phát hiện bệnh giai đoạn muộn (giai đoạn III,IVA) và kỹ thuật xạ trị UTVH là một trong những kỹ thuật mới, khó nhất trong ung thư vùng đầu mặt cổ nhưng tỷ lệ đáp ứng với điều trị khá tốt tương đương với các trung tâm lớn trong nước và trên thế giới. Điều này thể hiện hiệu quả của các phác đồ mà chúng tôi lựa chọn cho nhóm người bệnh này. Ghi nhân các biến chứng thường gặp cũng chỉ ở mức độ nhẹ và vừa, bệnh nhân hồi phục tốt sau quá trình điều trị. Đây cũng là tiền đề để chúng tôi có những nghiên cứu sâu hơn, số lượng bệnh nhân lớn hơn, bệnh lý ung thư đa dạng hơn, thời gian theo dõi nhiều hơn để có thể góp phần nhỏ bé của mình nhằm nâng cao việc ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị ung thư nhăm tăng hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Từ tháng 4/2019 đến nay, đề tài đã tiến hành điều trị xạ trị điều biến cường độ UTVH cho 85 bệnh nhân và tất cả đều được theo dõi đánh giá (trong đó có 52 bệnh nhân trong thời gian nghiên cứu đề tài này vượt tỉ lệ 173,3%). Trong tổng số 85 bệnh nhân nghiên cứu, 100% bệnh nhân đều hoàn thành được hết phác đồ điều trị, không có bệnh nhân nào bị gián đoạn quá trình điều trị do tác dụng phụ.
Qua theo dõi trên 85 bệnh nhân điều trị tại Khoa Xạ tổng hợp- Bệnh viện ung bướu Nghệ An nhận thấy: Ung thư vòm họng hay gặp thể ung thư không biệt hóa (89,41%), độ tuổi hay gặp là lớn hơn 40 tuổi, tuổi trung bình là 48,9 ± 11,23 tuổi. Nam giới gặp nhiều hơn nữ giới với tỉ lệ nam/nữ là 2,4/1. Trong đó, nhỏ tuổi nhất là bệnh nhân nữ 12 tuổi, lớn tuổi nhất là bệnh nhân nam 75 tuổi.
Các triệu chứng lâm sàng hay gặp chủ yếu là nổi hạch cổ 70,5%, đau đầu 27,05%, ù tai 30,59%, chảy máu 14,12%. Bệnh thường phát hiện ở giai đoạn đã tiển triển tại chỗ tại vùng (giai đoạn II 11,76%, giai đoạn III 42,35%, giai đoạn III 32,94%, giai đoạn IVA 23,53%).
Ung thư vòm đáp ứng tốt với điều trị hóa xạ trị đồng thời, tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn 89,41%, tỷ lệ đáp ứng 1 phần là 4,71%, không đáp ứng là 1,18% và có 4,71% tiển triển di căn xa.

Các biến chứng, tác dụng phụ trong quá trình điều trị cũng chủ yếu gặp độ 1, độ 2, ít gặp độ 3, độ 4. Liều xạ trị trên cơ quan nguy cấp của kế hoạch tia xạ đảm bảo trong giới hạn cho phép.
Ngoài ra, việc áp dụng và triển khai kỹ thuật xạ trị IMRT đã được chúng tôi triển khai điều trị không chỉ trên ung thư vòm họng mà còn trên rất nhiều mặt bệnh như: Các bệnh ung thư vùng đầu mặt cổ (hạ họng thanh quản, họng miệng, khoang miệng, u não), ung thư thực quản, ung thư phổi, ung thư cổ tử cung, ung thư trực tràng, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú… xạ trị giảm nhẹ triệu chứng, xạ trị giảm đau, cầm máu. Số lượng bác sĩ, kỹ sư và kỹ thuật viện được đào tạo hoàn toàn làm chủ được kỹ thuật này là 10 người. Trong đó, có 1 luận văn thạc sỹ Ung thư trường ĐH Y Hà Nội được hoàn thành về đề tài UTVH bảo vệ vào tháng 10.2021 được đánh giá xuất sắc.
Sau hơn 2 năm triển khai, đề tài đã tiến hành điều trị cho hơn 45.000 lượt xạ trị. Trong đó xạ trị điều biến cường độ chiếm hơn 60% cho các bệnh lý ung thư kể trên với đầy đủ các giai đoạn. Tất cả phác đồ điều trị được cập nhật thường xuyên từ các hiệp hội ung thư lớn trên thế giới, phác đồ của Bộ y tế. Đánh giá bước đầu mang lại hiệu quả cao và xây dựng niềm tin của bệnh nhân và người nhà với Bệnh viện./.
Nguyễn Hải Hoàng

Nguồn: Sưu tầm

 Tags: ung thư

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập2553
  • Hôm nay132,763
  • Tháng hiện tại960,676
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây