Một bản Quốc ngữ Hương Sơn tại Nghệ An

Thứ ba - 19/04/2022 05:21 0
 Ông xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học, cha là Nho sĩ Nguyễn Văn Định, mẹ là Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Lớn lên, vào Thanh Hoá, theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng, được thầy truyền thụ môn học Dịch lý và sách Thái Ất thần kinh. Tuy học giỏi, nhưng lớn lên vào lúc xã hội loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn chí, đợi thời, không chịu ra thi. Mãi sau này, Mạc thay Lê, tình hình xã hội ổn định, ông mới ra ứng thi, đậu trạng nguyên (1535), rồi làm quan với nhà Mạc, bấy giờ ông đã 45 tuổi. Làm quan ở triều đình được 8 năm (1535-1542), thấy gian thần hoành hành, bè phái, triều chính ngày một xấu thêm, ông dâng sớ xin chém 18 lộng thần, không được chấp nhận, bèn thác cớ xin trí sĩ. Về sau, vì sự ràng buộc của nhà Mạc với các sĩ phu có uy vọng, vì muốn tác động đến thời cuộc, ông trở lại tham gia triều chính với cương vị như một cố vấn. Ông từng theo quân Mạc, đi chinh phạt Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên. Ông cũng từng bày mưu tính kế giúp Mạc bảo toàn vương nghiệp. Vì thế, hoạn lộ của ông từ Lại bộ Tả thị lang, Đông các đại học sĩ, trải thăng đến Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Tuyền hầu, rồi lại gia phong Trình quốc công nên đời thường gọi là Trạng Trình. Mãi đến ngoài 70 tuổi, ông mới thực sự treo xe, treo mũ từ quan.
Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thời gian sống ở quê nhà, bên bờ sông Tuyết Hàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân, lấy đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học, rồi lập quán, xây cầu, dựng chùa, mở chợ, trồng cây... Ông có nhiều học trò nổi tiếng, như Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, v.v... người thờ Mạc, người theo Lê, người suốt đời ẩn dật. Ông được người đương thời tôn kính như bậc thầy. Ngoài triều Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn đều có sai sứ đến hỏi ý kiến ông về những việc hệ trọng. Tháng mười một năm Ất Dậu (1585) ông qua đời, hưởng thọ 94 tuổi, học trò truy tôn là Tuyết giang phu tử 雪江夫子.
Sách "Bỉnh Khiêm Trình Quốc công sấm ký" sưu tầm tại Nghệ An

Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Bạch Vân am thi tập và một số bài văn bia chữ Hán. Đặc biệt là các tập sấm ký như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ, v.v... được truyền tụng trong dân gian. Mới đây chúng tôi sưu tầm được 1 bản “Bỉnh Khiêm Trình Quốc công sấm ký” trên địa bàn Nghệ An viết bằng chữ Nôm, chúng tôi xin được phiên âm sang chữ Quốc ngữ để bạn đọc tham khảo.

秉謙程國公讖記

*****

Nước Nam thường có thánh tài,

Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng.

Kia Nhị thuỷ, nọ Đảo sơn,

Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho.

Học cách vật mới dò tới chốn,

Chép ghi vào một bản xem chơi.

Muôn sự cũng bởi tại trời,

Suy ra mới biết sự đời thấp cao.

Dù ai có được vàng trao.

Ngàn hốt cũng mặc về sau cho người.

Bảo cho chữ một nghĩa mười,

Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên.

Kể từ Lạc Long Quân dựng nước,

Sang Hùng Vương được mười tám đời.

Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi,

Bông lau dẹp loạn ra đời trị dân.

Mấy được mười hai dư xuân,

Lê Hành kế trị xa gần âu ca.

Truyền đã được mười ba năm lẻ,

Đến Lê triều xem kể loạn thay.

Ngôi trời truyền đến Lý nay,

Long thành định đỉnh thuở rày mới phân.

Chiều Hoàng là ả nữ quân,

Mê về nhan sắc trao Trần thái tôn.

Mười hai đời một lòng nhân hậu,

Trăm bảy mươi in dấu thất niên.

Đông A chốn ấy còn bền,

Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.

Thái ngu được mười bốn năm,

Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi.

Suy ra mới biết sự trời,

Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia.

Mười đời ngồi ngự ngai vàng,

Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh sư.

Xưa làm lực sỹ đô du,

Trời cho nên trị làm vua một đời.

Sáu mươi năm bất tái hồi,

Tống Sơn chốn ấy có đời Thạch công.

Định mưu phù lập Trang Tôn,

Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương.

Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn,

Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia.

Tây Sơn sùng sục kéo ra.

Nghiệm xem thế tục gọi là phương ngôn.


Thơ rằng: Lê tồn Trịnh tại,

Lê bại Trịnh vong.

Đầu cha chắp lấy đầu con,

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.

Kẻ sau này ngu

Trịnh được lâu.

Lại có thơ rằng:

Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân,

Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền.

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,

Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê.

Nọ nào ngang dọc trong huê,

Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn.

Chó mừng chủ, gà cũng cục tác,

Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.

Ngạn lại có câu rằng:

Gà bỏ con kêu cục tác,

Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa.

Lợn ăn no ủn ỉn nằm,

Mới kể là đời thịnh thế.

Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai,

Bởi Tần Vương u mê chẳng biết.

Rồi phen này dê lại giết dê,

Tới khi thực tận binh bì.

Âm binh ở giữa ai thì biết sao!

Trời cho ta giơ dao giết quỷ,

Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư.

Ai từng cứu con thơ sa giếng,

Giốc một lòng chinh chiến đua nhau.

Muôn dân chịu thuở âu sầu,

Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho.

Chốn đông nam là nơi khổ ải,

Lánh cho xa kẻo phải đao binh.

Bắc kinh mới thực đế kinh,

Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào.

Vả mình là đấng anh hào,

Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.

Bò men lên núi Vu Sơn,

Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù.

Ấy những quân phụ thù thui thủi,

Lòng trời xui ai lại biết đâu.


Có thơ rằng:

Dần Mão chư dương giai vị cập,

Lai chiêu lục thất xuất minh quân.

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ,

Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.


Có thơ rằng:

Hầu đáo kê lai khởi chiến qua,

Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa.

Anh hùng mai thảo mã,

Tướng suý tận tiêu ma.

Phá điền thiên tử xuất,

Tràng vỹ tảo sơn hà.

Gà kia bên tường khuya sớm gáy,

Chẳng yêu ra áy náy bất bình.


Có thơ rằng:

Một đám mây xanh đứng giữa trời,

Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi.

Thiên hạ mười phần còn có một,

Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời.

Thầy tăng mở nước trời không bảo.

Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau,

Chớ có tham của tham giàu.

Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân,

Đằng giang chốn ấy cũng gần.

Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.


Thơ rằng:

Ba Thục riêng một góc trời,

Thái Nguyên một giải là nơi trú đình.

Bốn bề núi đá mọc xanh,

Có đường tiểu mạch nương mình ai hay,

Bốn mùa chim núi đá cây,

Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào,

Khuyên ai là đấng anh hào,

Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay,

Bốn bụt xuất thế đã chầy,

Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.


Thơ rằng:

Ấy là điềm xuất thánh quân,

Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường,

Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”,

Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao,

Nắng lâu ắt có mưa rào,

Vội chi tát nước xôn xao cày bừa,

Nắng rồi thì phải có mưa,

Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn,

Tuần này thánh xuất khảm phương,

Sự thật đã tường chẳng lọ phải say,

Tuần này thiên địa chuyển hồi,

Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên,

Trời sai quỷ sứ dọn đường,

Để cho thánh xuất khảm phương sau này,

Vội chi đua sức ra tay,

Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi,

Suy cho thấu biết sự đời,

Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.


Thơ rằng:

1 - Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền,

2 - Ưng tri hoàng thước tại thân biên,

3 - Tước bị lạm nhân cung đạn đả,

4 - Lạp nhân cách tự hổ lang huyên,

5 - Tuệ tinh xuất long xà,

6 - Thần xuất cửu cửu gia,

7 - Ngưu mã thiên hạ động,

8 - Đinh hạ nãi Đông A,


Rồi ra mới biết thánh minh,

Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò,

Nhị Hà một giải quanh co,

Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào,

Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao,

Có bến mưa rào có thứ cùng chăng,

Nói đến độ Thầy Tăng mở nước,

Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu,

Bấy lâu những cậy phép mầu,

Bây giờ phép ấy để đâu không hào?,

Cũng có kẻ non trèo biển lội,

Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.


Thơ rằng:

1 - Di lặc giáng sinh,

2 - Sa phù dĩ chỉ,

3 - Lục thất dĩ thành,

4 - Kiến long sào kinh,

5 - Nhật xuất điện thượng,

6 - Thiên hạ thái bình.


Thơ rằng:

Giang Nam nổi trận mạt thù,

Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời,

Phùng trời nay gặp thái lai,

Can qua chiến trận để người phong công,

Trẻ già được hết sự lòng,

Ghi làm một bản nội phòng mở xem,

Rước vua về đến Tràng An,

Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn,

Đời ấy cùng thánh, cùng tiên,

Sinh những người hiền giúp nước yên dân.

Này những lúc thánh nhân chưa ra đời,

Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu,

Lợn nằm cũng thấy lợn lo,

Thái bình mới động thập thò liền sang,

Ngang cung văn vũ khác thường,

Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

Thuỷ binh cờ xí vừng hồng

Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn

Đứng hiên ngang nào ai biết trước

Bắc kinh sang có việc gì chăng?

Ai còn khoe trí khoe năng

Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi

Chưa từng thấy nay đời sự lạ,

Bỗng khiến người vu vạ cho dân,

Muốn bình sao chẳng lấy nhân,

Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa,

Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán,

Đúc tiền ra bán tước cho dân,

Xun xoe những cậy thánh thần,

Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công,

Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví,

Xưa phục thù ai sửa ngôi cho,

Mạc kia cũng muốn nên trò,

Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!,

Kẻ thì tự xưng Lê nay,

Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.

Bốn phương cũng có can qua,

Mạc thì chẳng được đã ra lại về,

Quân hùng binh dấy giang khê,

Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì...

Thơ rằng:

1 - Hầu đáo kê lai vị chính kỳ,

2 - Quốc dân hãm nịch quốc dân di,

3 - Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống,

4 - Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi,


Thơ rằng:

Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ,

Tài tận dân hao thế lực suy,

Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến,

Kham tiếu không huyền tiệm thất ky,

Xem thấy những sương sam tuyết lạnh,

Loài bất bình tranh cạnh hung hăng,

Thành ao cá nước tưng bừng,

Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm,

Chiến trường chốn chốn cát lầm,

Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.

Sang thu chín huyết vừng hồng,

Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần,

Trẻ con mang lệnh tướng quân,

Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường,

Dùng uy bát là đường ngũ bá,

Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan,

Cỏ cây lá rụng đầy ngàn,

Một làng còn mấy chim đàn bay ra

Bốn phương cùng có can qua

Làm sao còn biết có nhà Đà giang

Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường

Kiều môn án trước cao bành tựa sau

Thái nguyên cận bắc đường sau

Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ

Cùng nhau gặp mặt bây giờ

Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông

Vui mừng gặp mặt tam công

Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao

Mai kia cùng đấng anh hào

Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành

Vậy nên một áng phong tình

Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng

Bõ khi chém lợn vẽ rồng

Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu

Bõ khi kẻ việt người Hồ

Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường

Ngày thường trông thấy quyển vàng

Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.

Tinh thái ất giờ đời là thực

Sấm trời xem vô giá muôn phần

Kể từ đời Lạc Long Quân

Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian

Một đời có một tôi ngoan

Giúp chưng nhà nước dân an thái bình

Thấy đâu bò đái thất thanh

Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi

Phá điền than đến đàn dê

Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng

Dê đi dê lại tuôn buồn

Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.

Thơ rằng:

Ghê thay thau lẫn với vàng,

Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng

Thánh ra tuyết tán mây tan

Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi

Can qua việc nước bời bời.

Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân

Lục thất dư ngũ bách xuân

Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao

Thấy sấm tự đấy chép vào

Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.





Nguồn tin: khxhnvnghean.gov.vn

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây