Thử tìm dấu tích Champa qua một vài danh xưng1 ở Nghệ An

Thứ năm - 05/08/2021 05:21 0

Trần Văn Dũng

  1. Đặt vấn đề

Theo Ức Trai thi tập - Dư địa chí của Nguyễn Trãi và Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang thì vào thời cổ đại, thuở vua Hùng dựng nước, vùng đất tương ứng với lãnh thổ Quảng Trị ngày nay, nằm trong bộ Việt Thường của nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời thuộc Hán, vùng đất này thuộc quận Nhật Nam. Năm 192, nhân dân Nhật Nam nổi dậy chống phong kiến nhà Hán, lập nên nước Lâm Ấp. Sau đó, Lâm Ấp sáp nhập với Tiểu Vương quốc Panduranga ở phía Nam lập thành Vương quốc Champa. Từ năm 1069, Cửa Việt - sông Hiếu trở thành ranh giới hai nước Champa và Đại Việt. Với ngót một ngàn năm lịch sử quan hệ giữa hai dân tộc, đất Nghệ An mặc dù không phải là nơi phát tích của vương triều Champa, cũng chưa từng được coi là “trọng trấn”, “phên giậu” phía Nam của Tổ quốc như Quảng Trị, nhưng là mảnh đất đã từng chứng kiến sự giao thương thân thiết cũng như những cuộc trường chinh suốt một chặng dài của lịch sử. Đặc biệt, giai đoạn 1367 - 1390, dưới sự trị vì của Chế Bồng Nga (Po Binasuor, 1360 - 1390), Champa đã nhiều lần kéo quân đánh phá Đại Việt, nhằm tái chiếm các vùng đất Châu Ô và Châu Lí vốn được chuyển giao sang chính quyền Đại Việt trong thời gian trị vì của vua Chế Mân, trong đó có ba lần tàn phá kinh đô Thăng Long (1371; 1377; 1383).  

Upload

Quần thể tháp Chàm ở Việt Nam

  1. Vài nét về nguồn gốc người Chăm ở Nghệ An

Có thể thấy, cư dân Nghệ An được hình thành từ hai lớp: lớp cổ và lớp mới. Lớp cổ gồm chủ yếu là người Việt (có thể được xác định một cách có cơ sở từ Di chỉ làng Vạc và lịch sử gần một ngàn năm danh xưng Nghệ An). Lớp mới là những người Việt thời Lý trở về sau và những người ở các vùng miền khác nhau (phần lớn là vùng đồng bằng Bắc bộ) được bổ làm quan, cùng gia thuộc vào định cư; cùng với đó là những cư dân di cư đến theo những hoàn cảnh khác nhau và qua các đợt khác nhau. Từ khoảng thế kỷ XIV trở về sau có thêm một số cư dân các tộc người thiểu số (Thái, và Khơ Mú đến Nghệ An khoảng thế kỷ XIV; Người Mông di trú đến Nghệ An cách đây khoảng 300 năm, cùng với đó là một số nhóm tộc người thiểu số ở các quốc gia lân bang di cư đến và hình thành nên một vài tộc người khác như Thổ, Ơ Đu). Có thể nói, Nghệ An là địa bàn cộng cư của người Việt, một số cư dân các tộc người thiểu số. Và, sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta quên đi sự có mặt của một bộ phận cư dân Champa trong lịch sử, đặc biệt là thời kì cuối thế kỷ XIV. Năm 1377, Champa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóa. Năm 1378, Chế Bồng Nga đưa Trần Húc về Nghệ An phong làm trấn thủ và tiếm xưng vương hiệu, chiêu dụ dân chúng. Sau đó, Trần Húc và Chế Bồng Nga tập hợp dân chúng từ các vùng phía Nam dưới sự chiếm đóng của người Chăm, cùng với lực lượng của người Chăm đánh ra Bắc, tiến vào cửa Đại Hoàng. Năm 1390 sau khi Chế Bồng Nga tử trận trong đợt đem quân tấn công Thăng Long, quân Champa tan tác. Một lực lượng không nhỏ bị quân dân Đại Việt bắt giữ. một thời gian sau họ được thả và tản mạn đến các vùng dọc bờ biển và các con sông vùng Bắc Trung bộ sinh sống... Sự gắn kết, hội nhập trong quá trình lịch sử đã tạo nên những giá trị đặc sắc mang đậm dấu ấn của các nền văn hóa. Tuy nhiên, cũng do những biến động lịch sử và tiếp xúc văn hóa - tộc người, ngày nay ta khó có thể xác định được số liệu về cư dân có nguồn gốc Champa trên địa bàn. Nói cách khác, tộc người Chăm trên đất Nghệ An không còn được rõ ràng như ở các khu vực Trung Trung bộ, Nam Trung bộ và một số địa bàn ở Tây Nam bộ, Tây Nguyên. Mặc dù vậy, dấu ấn văn hóa Champa; sự ảnh hưởng của “cơ tầng” văn hóa, đặc biệt là ngôn ngữ Champa trong đời sống cộng đồng cư dân ở Nghệ An là điều có thể khẳng định.

Champa là gọi theo tiếng Phạn hoặc tiếng Chăm. Người Hán trước đây thường gọi là Chiêm Ba hay Chiêm Thành. Champa là một quốc gia cổ từng tồn tại từ năm 192 đến 1832. Cương vực của Champa xưa chủ yếu vùng duyên hải Trung bộ, lúc mở rộng nhất trải dài từ Hoành Sơn đến Bình Thuận ngày nay. Về nguồn gốc tộc người, nhiều nghiên cứu cho rằng, người Chăm có nguồn gốc Mã Lai - Polynesia di cư đến đất liền Đông Nam Á từ Borneo vào thời kì Văn hóa Sa Huỳnh (khoảng thế kỷ I trước Công nguyên). Như vậy, cư dân Champa có nguồn gốc từ thế giới Đa Đảo mà giống người chiếm đa số và ưu thế là người Indonesien. Người Chăm trong thời vương quốc Champa lịch sử bao gồm hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). Sau này, người ta thường chia cư dân Chăm thành ba nhóm: Chăm Hroi, Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận, Chăm Nam bộ. Họ sống tập trung trong các thôn xóm riêng biệt gọi là palei. Champa là một quốc gia theo chế độ quân chủ, nhưng không theo hình thức nhà nước phong kiến “trung ương tập quyền" mà là một dạng nhà nước “liên bang” gồm một số tiểu vương quốc kết hợp lại. Mỗi tiểu quốc (hay địa khu) đều có thể chế chính trị theo hình thức tự trị. Vương quốc Champa đã trải qua nhiều thời kì, nhiều triều đại, với nhiều lần dời đô do những biến cố về lịch sử và quyền lãnh thổ ở từng thời kì khác nhau. Về văn hóa, trải qua gần 20 thế kỉ tồn tại và phát triển, người Chăm đã tiếp nhận những yếu tố văn hóa ngoại lai để sáng tạo nên một nền văn hóa đặc trưng với nhiều loại hình, phản ánh đầy đủ, sinh động đời sống tộc người; làm nên một nền văn minh Champa nổi tiếng, đặc biết là kiến trúc và nghệ thuật gốm sứ. Qua những di tích đền đài người Chăm để lại dọc dãy đất miền Trung Việt Nam, các nhà nghiên cứu đánh giá là người Chăm đã đạt tới trình độ cao về nghệ thuật kiến trúc. Các tháp Chăm, đặc biệt, khu đền tháp Thánh địa Mĩ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới (1999), được đánh giá ngang hàng với các di tích nổi tiếng khác ở Đông Nam Á, như Angkor    (Campuchia), Pagan (Myanmar), Borobudua (Indonesia). Theo đánh giá của các nhà khảo cổ học thì gốm Chăm là tiền thân của gốm Sa Huỳnh, nghĩa là thuộc loại lâu đời nhất ở Đông Nam Á. Điều đáng nói là nền văn hóa Champa bên cạnh sự tiếp thu, chịu sự ảnh hưởng các nền văn hóa khác, nó còn ảnh hưởng trở lại các quốc gia láng giềng, đặc biệt là với Đại Việt do sự tiếp xúc văn hóa. Hà Văn Tấn từng nhận xét, “Trong suốt những năm tháng cuối cùng của thế kỷ X dưới triều Tiền Lê đã có hơn một lần người Champa quấy rối bờ cõi và nhân đó quân Đại Việt lại tiến vào Champa. Những cuộc tiếp xúc đó ngày càng nhiều hơn, đều đặn hơn và đương nhiên những ảnh hưởng của nền văn minh Champa cũng ngày càng rõ nét hơn vào Đại Việt… thậm chí còn là nguồn cảm hứng cho nền nghệ thuật Đại Việt vào thời kỳ sau” (Hà Văn Tấn, 1997, tr.791-793).

Cũng do diễn biến của lịch sử, các di tích Champa trên đất Nghệ An không được ghi dấu đậm nét và cũng không được rõ ràng, đầy đủ như ở các khu vực Trung Trung bộ, Nam Trung bộ và một số địa bàn ở Nam bộ, Tây Nguyên. Nhìn chung, văn hóa Champa ở Nghệ An không được tiếp nối qua cư dân người Việt mà chỉ là một vài biểu tượng tôn giáo và những chứng tích còn ghi dấu qua một số tên gọi (danh xưng), mà chủ yếu qua địa danh. Tuy nhiên, danh xưng vùng này lưu lại không nhiều, được tìm thấy dấu vết qua tên gọi của người Chăm xưa mà không có sự kế thừa, phát triển thành những tên gọi chính thức. Nói cách khác, đây là những yếu tố văn hóa “cơ tầng” Chăm, chịu ảnh hưởng của “cơ chế vận hành” văn hóa - ngôn ngữ của các nền văn hóa khác(2), đặc biệt là văn hóa người Việt. Qua dấu vết của các lớp văn hóa, chúng ta có thể thấy được đặc điểm nổi bật của văn hóa Nghệ An là sự hội nhập qua các thời kì và sự ảnh hưởng của nó đến các tầng ngôn ngữ đang chồng xếp lên nhau, hoặc giao thoa nhau. Đó là các sự kiện văn hóa của người Việt cổ, văn hóa Hán, văn hóa Champa được đan xen với văn hóa Việt hiện đại hay sự giao thoa giữa văn hóa người Việt với văn hóa một số tộc người thiểu số trên địa bàn.

Upload

  1. Thử tìm “cơ tầng” ngôn ngữ Chăm qua một vài danh xưng ở Nghệ An

Ngôn ngữ Chăm thuộc họ Nam Đảo (Austronesian), dòng Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - polynesian); là họ được xác định có khoảng 500 ngôn ngữ thành phần với khoảng hơn 150 triệu người sử dụng. Họ ngôn ngữ này lại có thể chia thành hai nhánh: nhánh phía Đông và nhánh phía Tây. Nhánh phía Tây lại có thể chia thành hai nhánh nhỏ (tiểu nhánh): tiểu nhánh Đông Indonesian gồm những ngôn ngữ sử dụng ở Tân Ghine, ở đảo Maluccan,… và tiểu nhánh Hesperonesian, gồm hai nhóm là nhóm Tây Indonesian và nhóm Bắc Indonesian. Nhóm Tây Indonesian được chia thành hai tiểu nhóm: tiểu nhóm gồm các ngôn ngữ Nam Đảo được sử dụng ở Indonesia, Brunei, Malaysia,... và tiểu nhóm Nam Đảo lục địa hay còn gọi là tiểu nhóm Chàm. Tiểu nhóm này gồm ngôn ngữ Chăm và ngôn ngữ của các tộc người thiểu số như Êđê, Jrai, Churu, Raglai, cư trú tại vùng Nam Trung bộ, Tây Nguyên. Ngôn ngữ tiểu nhóm Chăm được hình thành bởi cơ tầng Mã Lai - Đa Đảo và cơ chế Môn - Khmer.        

Upload

Theo cách phân chia các vùng phương ngữ trong tiếng Việt thì tiếng Nghệ An cùng với tiếng Hà Tĩnh tạo thành tiếng địa phương Nghệ - Tĩnh, phân biệt với tiếng Thừa Thiên - Huế trong phương ngữ Bắc Trung bộ. Tiếng Nghệ An mang những đặc điểm chung của vùng phương ngữ Bắc Trung bộ nói chung mà gần hơn là tiếng địa phương Hà Tĩnh. Đó là hiện tương biến âm xảy ra hàng loạt ở các yếu tố cấu tạo nên âm tiết (đặc biệt là phần vần và thanh điệu). Ngoài ra, sự đa dạng về các biến âm trong nội bộ tiếng địa phương cũng có hiện tượng đặc biệt. Hiện tượng này không chỉ xảy ra giữa các làng xã khác nhau mà nó còn xảy ra trong phạm vi một làng. Về từ vựng, tiếng Nghệ An cũng như vùng Nghệ Tĩnh nói chung còn lưu giữ một số từ cổ tồn tại song song bên các lớp từ mới cùng nghĩa (đọi - bát; nốc (nôôc) - thuyền; trốc (trôôc) - đầu, mói - muối, ná - nứa, ga - gà, tru - trâu,...). Nhiều từ địa phương có độ phân giải cao cho cả nhiều vùng trong khu vực Bắc Trung bộ. Song song với sự phát triển, biến đổi về địa lí, lịch sử và hành chính, đặc biệt là tiếp xúc văn hóa - tộc người, các yếu tố của văn hóa ở Nghệ An tất yếu có sự biến đổi theo. Có thể khẳng định, dưới tầng văn hóa, ngôn ngữ Việt là các lớp văn hóa, ngôn ngữ khác như Hán, Chăm, Tày Thái cổ. Sự chồng xếp lên nhau bởi nhiều lớp ngôn ngữ trên một số không ít đối tượng trên địa bàn đã làm cho chúng ta khó nhận diện ra các yếu tố đó được tạo ra bởi “cơ tầng” và được vận hành theo “cơ chế” nào. Bởi vậy, khi tìm hiểu nghiên cứu một danh xưng nào đó ở Nghệ An chúng ta phải tìm hiểu trên cơ sở nét đặc trưng về địa lí, lịch sử, dân cư, văn hóa, ngôn ngữ của vùng đất này qua các thời kì khác nhau, trên cơ sở đó nhằm bóc tách những yếu tố chồng xếp lên nhau để có thể nhận diện được yếu tố ngôn ngữ - văn hóa ban đầu mà đối tượng mang tên. Tuy nhiên, vấn đề là hết sức khó khăn bởi sự phức tạp của diễn tiến lịch sử và quan trọng hơn là sự hiểu biết của người viết còn hạn chế, trong khi tư liệu về vấn đề này không nhiều. Mặc dù vậy, chúng tôi cũng mạnh dạn thử đi tìm “cơ tầng” ngôn ngữ Chăm qua một số danh xưng trên địa bàn, chủ yếu là các địa danh (tên riêng đối tượng địa lí) hoặc các thành tố của địa danh. Về cấu tạo, địa danh bao giờ cũng gắn liền với thành tố chung, và cùng với thành tố chung làm thành một phức thể địa danh. Nói cách khác, địa danh luôn đi liền với thành tố chỉ loại hình của địa danh đó. Việc chúng ta cần tìm kiếm là “tính lí do” của tên gọi đối tượng địa lí đó, trong lúc muốn làm rõ “tính lí do” của một địa danh thì phải làm rõ thành tố chỉ loại hình của địa danh đó. Có thể dẫn cụ thể một số trường hợp sau:

- Thành tố Trà trong các địa danh như Trà Lân, Trà Liên, Trà Lộc, Trà Trì,… theo nhận thức của chúng tôi là một yếu tố gốc Chăm, hay nói một cách khái quát hơn là một yếu tố của ngôn ngữ gốc Nam Đảo. Trong các ngôn ngữ thuộc dòng Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam (Chăm, Êđê, Jrai, Churu, Raglai), có êa; ia, ya (chỉ nước, suối nước, dòng nước). Các từ này cũng có thể được dùng như là xứ, xứ sở. Chúng tôi cho rằng, đây là hiện tượng vừa là đồng âm vừa mang tính ý niệm mà trong nhiều ngôn ngữ đều tồn tại. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, từ nước được hiểu là một chất lỏng (H20), cũng có thể dùng với nghĩa quốc gia, dân tộc (nước Việt Nam). Từ việc sử dụng các thành tố chung của các tộc người bản địa cùng sử dụng nhóm ngôn ngữ (ia, ya, êa) cho phép ta nghĩ đến một thực tế, nơi con người đến cư trú (xứ sở) tất yếu gắn với (hoặc gần) nguồn nước. Các danh xưng nói chung, địa danh nói riêng nguồn gốc Nam Đảo ở Việt Nam đều có các yếu tố chỉ nước (ia, ya, êa). Các tộc người sử dụng ngôn ngữ thuộc dòng Môn - Khmer khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên có từ dak, dar chỉ khái niệm nước. Từ dak hay dar có thể là nước, suối nước, dòng nước, hồ nước, giống như êa, ia, ya trong từ ngữ của các tộc người sử dụng ngôn ngữ dòng Mã Lai-Đa Đảo, và cũng có thể được dùng như là xứ, xứ sở, nơi cư trú (dar Lat - Đà Lạt; dak Bunong - Dak Nông;…). Trong khi đó các tộc người thiểu số Nam Trung bộ và Trường Sơn Tây Nguyên của Việt Nam đều sử dụng yếu tố krông - chỉ khái niệm sông. Yếu tố này còn là phổ biến đối với mọi miền đất nước với các biến thể như khoong, khloong, klông, kroong và một số biến thể khác trên cơ sở cách phát âm của các tộc người khác nhau, (trong đó khloong, kroong là những biến dạng gần nhất của từ gốc), đã được Hoàng Thị Châu trình bày khá thuyết phục (Hoàng Thị Châu, 1966, tr.99). Cũng như trường hợp ia, ya, êa, chúng có thể được dùng như là xứ, xứ sở, nơi cư trú. Và vì vậy, nước được sử dụng như là xứ sở, nơi cư trú của họ. Thực tế thì không chỉ các tộc người thiểu số mà các cộng đồng dân cư trên thế giới đều tụ cư bên các con sông, con suối. Với âm trà là do người Việt (người Kinh) đọc trại âm ia, ya, hoặc êa mà thành. Như vậy, có thể nói, trà ở đây được hiểu là xứ sở, nơi chốn (thành tố chung của địa danh). Tuy nhiên khi người Việt đặt trước một thành tố khác để chỉ loại hình (sông, cầu, thôn,…) thì trà trở thành một thành tố của tên riêng. Thành tố trà (tức ya, ia, ea) xuất hiện nhiều nơi với sự có mặt của người Chăm (Trà Khúc, Trà Bồng,.. ở Quảng Ngãi; Trà Mi, Trà Kiệu,… ở Quảng Nam; Trà Bá ở Gia Lai; Trà Lân ở Nghệ An,…). Ở đây cần phân biệt với thành tố trà trong Trà Bàn ở Bình Định (có người hiểu và viết nhầm thành Đồ Bàn). Trà Bàn là do đọc trại từ Chà Bàn. Đây là tên khác (do người Việt gọi) kinh đô Vijaya (kinh đô Champa sau khi rời bỏ Indrapura vào năm 1000, và trước khi chuyển về Bal Ywa, Bal Lai, Bal Caung… và sau đó đến Bal Canar ở Phan Rí). Riêng về trường hợp Trà Lân ở Con Cuông, Nghệ An chúng tôi cho rằng địa danh này được định danh vào khoảng thế kỷ XIV bằng ngôn ngữ gốc Nam Đảo, khi người Chăm có mặt tại Nghệ An, với tự dạng ban đầu là ya (ia, êa) lăn (có nghĩa là giang sơn, đất nước). Như đã nói ở trên, âm ya, ia, êa được cư dân địa phương đọc trại đi thành trà (Trà Lăn). Thời thuộc Minh, danh xưng này được đọc là Trà Lân (yếu tố lăn - ngôn ngữ gốc Nam Đảo (nghĩa là đất, đất đai), thành lân - ngôn ngữ Hán (nghĩa là đồi núi). Và như vậy, danh xưng này chủ thể định danh sử dụng ngôn ngữ gốc Nam Đảo để gửi gắm một thông điệp về tham vọng mở rộng bờ cõi của họ. Người Trung Hoa (thời nhà Minh) khi xây dựng hệ thống phòng thủ ở đây đọc trại âm lăn thành lân, và vô tình đã nhìn địa thế vùng này một cách trực quan hơn (xứ sở đồi núi). 

- Thành tố Cửa trong Cửa Hội, Cửa Lò, Cửa Rào,… Chúng tôi cho rằng đây là yếu tố gốc Chăm, với lí do: Thứ nhất, vùng duyên hải được người Chăm thích chọn làm nơi cư trú và làm ăn. Các thành tố loại hình của địa danh thường xuất hiện sớm và về cơ bản có nguồn gốc bản địa. Vì vậy, người Chăm không dùng yếu tố môn (門tiếng Hán) để chỉ đối tượng này. Thứ hai, là tộc người sử dụng ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo, người Chăm sẽ chọn dùng Keluar (một từ thuộc ngôn ngữ gốc Nam Đảo, với nghĩa là lối ra vào, lối thoát, cửa ngõ). Điều này ta thấy rõ ở các quốc gia Đông Nam Á hải đảo, chẳng hạn thủ đô của Malaysia là Kuala Lumpur (Kuala hay Keluar là cửa sông, cửa biển). Thứ ba, người Việt đã phát âm Keluar thành cửa, thậm chí ở Nghệ An đã phát âm thành Cửa Lò. Thực tế thì vùng miền Trung (nơi sinh sống chủ yếu của người Chăm hoặc ảnh hưởng nhiều văn hóa Champa) là hay dùng yếu tố này (Cửa Lò, Cửa Hội ở Nghệ An; Cửa Sót, Cửa Nhượng ở Hà Tĩnh; Cửa Nhật Lệ, Cửa Hòn La, Cửa Hòn Chùa,.. ở Quảng Bình; Cửa Tùng, Cửa Việt ở Quảng Trị, Cửa Thuận An, Cửa Tư Hiền ở Thừa Thiên Huế, Cửa Đại ở Quảng Nam, Cửa Nam Ô ở Đà Nẵng,…), trong lúc ở Nam bộ thường dùng bến (yếu tố “bến” rất ít xuất hiện trong địa danh ở miền Bắc và Bắc miền Trung. Chúng thường chỉ được định danh mang thành tố “bến” khi đối tượng đó là nơi các phương tiện ra vào buôn bán, chẳng hạn: Bến Bính (Hải Phòng), Bến Thủy (Nghệ An), Bến Hải (Quảng Trị). Tiền thân của phố cổ Hội An cũng như vậy. Nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố với một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Hội An (Faifo) được hình thành dựa trên sự kế thừa cảng biển của người Chăm. Tây Nam bộ là vùng đất mới, giao thương chủ yếu với người Trung Hoa nên các yếu tố cửa chủ yếu dùng theo tiếng Hán. Các yếu tố cửa ở vùng Bắc bộ xuất hiện sớm, tuy nhiên không nhiều, và sử dụng theo tiếng Hán. Khảo sát sơ bộ 56 đối tượng được gọi là cửa biển trên toàn quốc thì có trên 30 đối tượng là ở miền Trung.  

- Thành tố rào (chỉ con sông nhỏ) trong một số địa danh khu vực Bắc Trung bộ, trong đó có Nghệ An là một từ rất cổ. Trong tiếng Nôm, rào chỉ có nghĩa là rào giậu, hàng rào, rào đón. Trong tiếng Hán cũng không thấy từ này. Chúng tôi đang ngờ rằng đây là một từ gốc gốc Nam Đảo, trên cơ sở từ Danaw bị đọc trại đi. Từ này cũng hầu như chỉ xuất hiện bởi khu vực miền Trung nhằm chỉ một đối tượng là sông. Vùng Nam Nghệ An và Đông Bắc Hà Tĩnh (nơi có nhiều cư dân gốc Champa sinh sống), trước đây khi còn ít ảnh hưởng tiếng phổ thông thì chỉ gọi đối tượng này là rào (không gọi sông), và tất cả mọi trường hợp đều sử dụng với tư cách thành tố chung (chỉ loại hình) của các địa danh có thành tố rào. Một số địa danh có thành tố rào đứng ở vị trí thứ nhất hoặc thứ hai thì đều là những yếu tố rất cổ, rất khó giải mã (Rào Gang, Cửa Rào - Nghệ An; Rào Trăng - Thừa Thiên - Huế; bàu Bợc Rào - Quảng Trị). Thực tế thì vùng miền Trung là hay xuất hiện yếu tố này. Một số địa danh ở khu vực Bắc miền Trung, đặc biệt vùng Quảng Trị, Thừa Thiên Huế có thành tố rào hiện nay (rào Cạn, rào Vịnh, rào Cụt, xóm Rào,…) đều do thời nay dựa vào thành tố chung (rào) để đặt tên. Ở Hải Phòng cũng có địa danh cầu Rào (được xây dựng lần đầu dưới thời thuộc Pháp, nằm trên tuyến đường từ Hải Phòng đi Đồ Sơn). Tuy nhiên do đi qua cánh đồng Rào, thuộc địa phận của làng Rào (tên nôm của làng An Khê) nên có tên là cầu Rào.

- Thành tố Vạn. Trong từ ngữ gốc Hán, vạn thường được dùng chỉ lượng (mười ngàn hoặc số lượng đặc biệt nhiều - muôn vàn). Trong bộ bài tổ tôm thì con bài số chín của hàng vạn (cửu vạn) có hình vẽ một người đang mang vác một vật gì đó có vẻ rất nặng. Có lẽ từ đây đã hình thành khái niệm cửu vạn (chỉ những người làm nghề phổ thông mang vác nặng). Thực tế thì thành tố này rất ít bắt gặp trong các địa danh ở nước ta và thường cũng chỉ xuất hiện ở các vùng duyên hải miền Trung (Diễn Vạn, Nghi Vạn - Nghệ An; Vạn Giã - Khánh Hòa). Từ việc khảo sát một số địa danh cũng như qua một vài danh xưng khác có liên quan, bước đầu chúng tôi thấy thành tố này có liên quan và rất gần gũi với một từ gốc Nam Đảo. Trong tiếng của các tộc người nói ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam đều có từ waih hoặc waih mran (có âm đọc gần âm vạn - nghĩa là chèo, bơi) với ý chỉ những người làm nghề sông nước. Khu vực Bình - Trị - Thiên thường dùng tổ hợp từ dân vạn đò, xóm vạn đò để chỉ những người làm nghề hoặc sống quần cư trên sông nước. Khu vực Nghệ - Tĩnh lại dùng dân vạn chài, xóm vạn chài để chỉ những đối tượng trên. Ở xã Hưng Lam (cũ) thuộc huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, có một xóm làm nghề sông nước. Họ sống quần cư bên dòng sông Lam, vị trí chảy qua sát chân núi Thành, nơi khá biệt lập với các làng khác. (Tương truyền, vùng bãi hai bên bờ sông Lam từ Thanh Chương trở xuống là nơi cư trú của rất nhiều tù binh người Chăm sau chiến tranh). Vào thời Hậu Lê, cư dân ở đây đã dựng một ngôi đền với tên gọi là đền Thanh Liệt. Tuy nhiên người dân vẫn gọi bằng một cái tên khác, là đền Vạn. Ở đây nghi thức và các lễ vật cúng tế cũng như biểu tượng của văn hóa vật thể (như chiếc thuyền được mô phỏng) có nhiều điểm khác biệt với các đền thờ nơi khác. Cư dân ở đây vẫn có một giọng nói rất khác với những làng bên cạnh, và khá giống với giọng của các cư dân vùng duyên hải Nghệ Tĩnh, đặc biệt là cư dân vùng Cửa Nhượng, Cửa Sót (Hà Tĩnh), mà ở đây họ vẫn tự nhận mình là dân “Bồ Lô”. Nghĩa là trong tiềm thức của cư dân vùng này, thì tổ tiên họ là những người gốc Chăm. Từ một số cứ liệu trên, chúng tôi tin có cơ sở để cho rằng, thành tố vạn được định danh ở khu vực Nghệ - Tĩnh nói riêng, miền Trung nói chung là một yếu tố của từ ngữ gốc Nam Đảo (tiếng Chăm).

- Thành tố cấm (trong sông Cấm, núi Cấm, cầu Cấm). Cấm trong các từ điển Hán Việt đều có chung một cách giải thích, là mang ý nghĩa ngăn trở, không được phép hoặc là một thành tố tham gia vào một từ nào đó với nghĩa liên đới, ví dụ cấm quân, cấm vệ, cấm thành,… Từ điển tiếng Nôm cũng không đề cập đến từ này. Vì vậy, thiết nghĩ cấm xuất hiện trong một số rất ít các địa danh ở Nghệ An là một yếu tố ngoại lai nhưng không phải gốc Hán. Sông Cấm là con sông nhỏ với chiều dài gần 50 km, bắt nguồn từ chân núi Đại Huệ chảy qua địa bàn huyện Nghi Lộc, rồi đổ ra Cửa Lò. Theo lời kể của nhiều người vùng hạ lưu sông Cấm, thì vùng đất này đã có lịch sử khoảng 500 - 600 năm, gắn với công lao khai phá của Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí. Xét về nguồn gốc ngữ nguyên thì giả thiết ở thời kỳ “khai thiên lập địa” của vùng đất này có một tên gọi con sông đang tồn tại đến ngày nay thì chắc chắn là một tên gọi khác mà vì một lí do nào đó bị thay đổi rồi bị lãng quên. Vào thời kỳ đó tất cả các đối tượng địa lí, đặc biệt là tên riêng các đối tượng địa lí tự nhiên ra đời đều mang “tính có lí do” và thường thì n&oacut

Nguồn tin: khxhnvnghean.gov.vn

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây